Ngay khi Đảng ta mới thành lập, trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng nước ta đã xuất hiện lực lượng vũ trang nhân dân. Từ những cuộc biểu tình lưu huyết của công nông Vinh - Bến Thủy đã xuất hiện những đội tự vệ, những đội xích vệ đỏ đầu tiên. Chính những xích vệ ấy đã đi đầu trong việc bảo vệ các làng đỏ trong quá trình tồn tại Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Trong thời kỳ khởi nghĩa Bắc Sơn (tháng 9/1940) Đảng ta đã xây dựng đội du kích Bắc Sơn. Ngày 14/2/1941, Đội du kích Bắc Sơn được chính thức thành lập ở khu rừng Khuỗi Nọi, xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn (Lạng Sơn). Đồng chí Hoàng Văn Thụ thay mặt Trung ương Đảng công nhận và giao nhiệm vụ cho đội. Đội có 32 người, chia thành 3 tiểu đội, do đồng chí Lương Văn Chi và Chu Văn Tấn chỉ huy. Vũ khí chỉ co 5 khẩu súng trường, còn toàn súng kíp và dao găm.

34 đội viên đầu tiên của lực lượng Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - Nguồn: Wikipedia.
Sau hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5/1941), đồng chí Phùng Chí Kiên được cử phụ trách khu căn cứ Bắc Sơn, Võ Nhai. Đội du kích Bắc Sơn được mang tên mới là Cứu quốc quân cho phù hợp với nhiệm vụ cứu nước trước mắt. Cũng lúc ấy, ở Nam Bộ, đội du kích Nam Kỳ đã xuất hiện trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940)
Cùng với nhân dân các dân tộc Bắc Sơn - Võ Nhai, Cứu quốc quân đương đầu với cuộc càn quét của 4.000 quân Pháp và quân lính tay sai, khố xanh, khố đỏ và lính dõng. Các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lương Văn Chi hy sinh. Hàng chục đội viên khác của đội bị sát hại, bị xử bắn ngay ở chân đồn Mỏ Nhài. Nhưng dưới dự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Hoàng Quốc Việt, ngày 15/9/1941, trung đội Cứu quốc quân 2 được thành lập tại khu rừng Khuôn Mánh, thuộc thôn Ngọc Mỹ, xã Tràng Xá (Võ Nhai) với 47 chiến sĩ (có 3 nữ) do đồng chí Chu Văn Tấn chỉ huy.
Trong 8 tháng đánh du kích ở Tràng Xá (tháng 7/1941 đến tháng 2/1942). Cứu quốc quân bám đất, bám dân chiến đấu, lực lượng ngày càng lớn mạnh. Từ 47 chiến sĩ Đội đã tăng lên 70 chiến sỹ, vũ khí ngày càng tốt hơn do cướp được của địch khiến chúng phải gọi Cứu quốc quân là "hùm xám Bắc Sơn"
Cũng lúc đó, ở Pác Bó (Cao Bằng) Hồ Chủ Tịch chỉ thị thành lập Đội du kích Cao Bằng-nơi có phong trào Việt Minh khá nhất, gồm 12 chiến sĩ do đồng chí Lê Quảng Ba chỉ huy. Để chuẩn bị về lý luận cho công tác xây dựng lực lượng võ trang, Người đã viết các tác phẩm như: cách đánh du kích, phép dùng binh của Tôn Tử.
Ngày 25/2/1944, trung đội Cứu quốc quan 3 thành lập ở Khuối Kịch châu Sơn Dương (Tuyên Quang). Tháng 10/1944. Đội được bổ sung một lực lượng quan trọng sau cuộc vượt ngục của 12 đồng chí cán bộ Đảng ở nhà lao Chợ Chu, trong đó có các đồng chí Song Hào, Lê Hiếu Mại...
Sau hơn một năm bị quân Tưởng Giới Thạch giam giữ trái phép ở Quảng Tây (Trung Quốc), Hồ Chủ Tịch về lại Cao Bằng, kịp thời hoãn lệnh khởi nghĩa của Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, vì đây là thời kỳ "hòa bình phát triển đã qua nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới".
Ngày 22/12/1944, theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại một khu rừng nằm giữa hai tổng: Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Hồ Chủ Tịch ủy nhiệm thành lập và lãnh đạo Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Đội biên chế thành 3 tiểu đội do đồng chí Hoàng Sâm làm đội trưởng và đồng chí Xích Thắng làm chính trị viên.
Đội chỉ có 34 chiến sĩ với 34 cây súng nhưng đều là những chiến sĩ kiên cường của công nông được chọn lọc từ các đội du kích ở Cao - Bắc - Lạng, một số đã học quân sự ở nước ngoài, hầu hết đã qua chiến đấu. Điều quan trọng hơn cả là không có ai không mang trong mình mối “Thù nhà, nợ nước” đối với đế quốc và phong kiến.
Việc thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với lịch sử quân đội ta. Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân của Hồ Chủ tịch tuy ngắn nhưng rất súc tích, bao gồm các vấn đề chủ yếu về đường lối quân sự của Đảng ta: Vấn đề kháng chiến toàn dân, động viên và vũ trang toàn dân, nguyên tắc xây dựng lực lượng võ trang cách mạng, phương châm xây dựng 3 thứ quân, phương thức hoạt động kết hợp quân sự với chính trị của lực lượng võ trang, nguyên tắc tác chiến và chiến thuật du kích của lực lượng võ trang, Hồ Chủ tịch nói: "... Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu qui mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta".
Chính vì ý nghĩa đó, ngày 22/12/1944 được chọn làm ngày kỷ niệm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.

QĐND Việt Nam ngày càng vững mạnh xứng đáng là lực lượng bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN ở thời kỳ mới - Ảnh: Internet
Dưới lá cờ đỏ sao vàng, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã long trọng đọc lời tuyên thệ. Sau đó, theo yêu cầu của anh em, đội tổ chưc một bữa cơm nhạt, không rau, không muối để nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh của các chiến sĩ cách mạng.
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là lực lượng chủ lực đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam. Chấp hành chỉ thị phải đánh thắng trận đầu của Bác, Đội đã mưu trí, táo bạo hạ đồn Phay Khắt (24/12) và Nà Ngần (25/12/1944) trong hoàn cảnh "ăn mỗi ngày một bữa, đánh mỗi ngày hai trận"
Chỉ sau một tuần lễ, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã phát triển thành 3 trung đội làm nòng cốt cho công tác tuyên truyền, diệt địch, biến Cao - Bắc - Lạng thành một căn cứ vững chắc.
Tháng 4/1945, theo quyết định của hội nghị quân sự Bắc Kỳ, ngày 15/5/1945, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc Quân đã thống nhất lại, mang tên Việt Nam Giải phóng quân. Lễ thống nhất được tổ chức tại Chợ Chu (Thái Nguyên) với 13 đại đội.
Tại các chiến khu cách mạng trong nước, lực lượng du kích vẫn phát triển trong hình thái 3 thứ quân: Tháng 5/1945, thành lập trung đội du kích của chiến khu Quang Trung; tháng 6/1945, đội du kích Đông Triều ra đời. Đội du kích Ba Tơ thành lập từ tháng 3/1945, vẫn tiếp tục phát triển ở Trung Trung Bộ.
Trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, Việt Nam giải phóng quân có vai trò rất quan trọng; 2 giờ chiều ngày 16/8, theo lệnh của Ủy Ban khởi nghĩa toàn quốc và lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, ngày 13/8, từ cây đa Tân Trào, đơn vị chủ lực Việt Nam giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến về thị xã Thái Nguyên, mở đầu cho tổng khởi nghĩa toàn quốc.
Lực lượng võ trang đã hỗ trợ đắc lực cho lực lượng chính trị, tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ sau 15 ngày, ách đế quốc ngót trăm năm, ngai vàng phong kiến hàng ngàn năm đã bị lật nhào.
Trong ngày lễ khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, quân đội ta mang tên Vệ quốc đoàn, đánh dấu thời kỳ trưởng thành thêm một bước của quân đội Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp, quân đội ta mang tên quen thuộc nhất: Quân đội nhân dân Việt Nam. Đến nay, cái tên ấy vẫn ghi đậm trong lòng dân và trong lòng đất nước. Với chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại, quân đội ta đã bước vào thời kỳ trưởng thành vượt bậc.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cả nước vĩ đại của dân tộc, Quân đội nhân dân Việt Nam tại miền Nam, một lực lượng của quân đội ta mang tên Quân Giải phóng miền Nam đã góp phần quyết định cùng toàn dân đánh bại tên đế quốc đầu sỏ, đánh sập ngụy quyền tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước vào mùa Xuân 1975.
"... Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì đó là Quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, lãnh đạo và giáo dục" như Hồ Chủ tịch từng nói.
Trên cơ sở của chiến tranh nhân dân vĩ đại, quân đội ta từ một lực lượng nhỏ bé, vũ khí trang bị thô sơ đã vươn lên thành một đội quân hùng hậu, chính quy, hiện đại, gắn bó với nhân dân, tô đậm truyền thống vẻ vang mà Bác Hồ, người cha thân yêu của các lực lượng võ trang Việt Nam, đã dạy:
"... Quân đội ta trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng...".
Năm 1990, theo nghị quyết số 2 của Bộ chính trị, ngày 22/12 hàng năm trở thành ngày Hội quốc phòng toàn dân.
Đây là ngày Hội biểu dương lực lượng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân và nền Quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN ở thời kỳ mới.