Hoàn thiện khung khổ pháp lý thúc đẩy hoạt động thanh toán xuyên biên giới
PGS-TS. Phạm Thị Hoàng Anh tại Hội thảo thanh toán xuyên biên giới và vay vốn trực tuyến
Phóng viên (P.V): Hiện nay, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đẩy mạnh công tác chuyển đổi số trong đó có việc yêu cầu ngành Ngân hàng thúc đẩy việc thanh toán xuyên biên giới. Là chuyên gia lĩnh vực tài chính – ngân hàng, xin bà cho biết thanh toán xuyên biên giới và thanh toán biên mậu có gì khác nhau cơ bản?
PGS-TS. Phạm Thị Hoàng Anh (PGS-TS): Tôi có thể khẳng định rằng, thanh toán biên mậu (Border trade payment) có sự khác với thanh toán xuyên biên giới, trước hết thanh toán biên mậu là các giao dịch phục vụ cho hoạt động thương mại diễn ra tại những khu vực biên giới giữa các quốc gia có chung đường biên giới đất liền. Hoạt động này mang những đặc điểm nổi bật, như: phạm vi địa lý giới hạn, chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp lý đặc thù và dựa trên tính tương hỗ giữa hai hoặc nhiều quốc gia chung biên giới.
Bên cạnh đó, thanh toán biên mậu thường có chi phí giao dịch thấp và linh hoạt trong việc sử dụng ngoại tệ hoặc đồng tiền quốc gia, tạo thuận lợi cho thương mại và giao thương khu vực biên giới.
Còn thanh toán xuyên biên giới (cross-border payment) là các giao dịch tài chính, trong đó người gửi và người nhận tiền ở các quốc gia khác nhau. Phạm vi thanh toán quốc tế nói chung, không giới hạn ở các quốc gia có chung biên giới. Hỗ trợ giao thương quốc tế, du lịch, chuyển tiền cá nhân và nhiều hoạt động khác. Đồng tiền thanh toán sử dụng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
Chủ thể các tổ chức tài chính và hệ thống tài chính. Cá nhân và doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế. Mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi và tăng tốc các giao dịch thanh toán quốc tế. Hình thức thanh toán qua ngân hàng đại lý, liên kết, nền tảng đơn, ngang hàng.
P.V: Thưa bà, vậy điều kiện để tổ chức thanh toán biên mậu bao gồm các yếu tố then chốt nào?
PGS-TS: Điều kiện để tổ chức thanh toán biên mậu bao gồm nhiều yếu tố then chốt. Trước hết, cần có hạ tầng thanh toán và giao thông phát triển, đầy đủ để bảo đảm các giao dịch được thực hiện thông suốt trong quá trình thanh toán. Bên cạnh đó, hệ thống pháp lý phải rõ ràng, với các văn bản quy định và thỏa thuận song phương về cơ chế, quy trình thanh toán biên mậu. Sự hợp tác chặt chẽ giữa các ngân hàng thương mại, trung gian thanh toán và cơ quan quản lý cũng đóng vai trò quan trọng, giúp hoạt động diễn ra an toàn, hiệu quả. Ngoài ra, đội ngũ nhân lực cần có đủ năng lực để vận hành hệ thống thanh toán và xử lý các giao dịch quốc tế. Cuối cùng, việc ứng dụng công nghệ thông tin và tự động hóa vào hoạt động thanh toán sẽ nâng cao tốc độ, tính chính xác và khả năng kiểm soát rủi ro.
P.V: Hiện nay khung pháp lý liên quan đến thanh toán biên mậu giữa Việt Nam và các nước chung biên giới như thế nào thưa bà?
PGS-TS: Về khung pháp lý liên quan đến thanh toán biên mậu giữa Việt Nam và các nước chung biên giới tập trung ở một số nội dung như: (1) Về đối tượng có hoạt động thanh toán biên mậu, mọi tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh (thương nhân) đều được quyền xuất khẩu hàng hóa qua biên giới, bên cạnh đó là cư dân biên giới.
(2) Việc xuất khẩu hàng hóa có thể thực hiện tại tất cả các cửa khẩu cũng như lối mở biên giới.
(3) Về loại tiền tệ trong thanh toán biên mậu, nguyên tắc chung cho phép sử dụng ngoại tệ tự do chuyển đổi, đồng Việt Nam hoặc đồng bản tệ của nước có chung biên giới. Cụ thể, với Việt Nam - Trung Quốc là VND hoặc CNY theo Điều 13 Thông tư 19/2018 (không có ngoại tệ tự do chuyển đổi); với Việt Nam - Campuchia là ngoại tệ tự do chuyển đổi, VND và KHR được sử dụng thông qua ngân hàng được phép tại khu vực biên giới theo Điều 5, 6, 7 Quyết định 17/2004/QĐ-NHNN; với Việt Nam - Lào là VND, LAK hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi.
(4) Về ngân hàng cung ứng dịch vụ trong thanh toán biên mậu, Việt Nam – Trung Quốc: chỉ các ngân hàng được phép có chi nhánh hoạt động tại tỉnh biên giới giáp Trung Quốc được cung ứng dịch vụ thanh toán bằng đồng CNY; Trường hợp ngân hàng được phép hoạt động ngoại hối không có chi nhánh ngân hàng tại các tỉnh biên giới thì có thể thực hiện thanh toán bằng đồng CNY theo cơ chế ủy thác cho ngân hàng được phép có chi nhánh ngân hàng tại tỉnh biên giới để thực hiện việc thanh toán bằng đồng CNY. Việt Nam - Campuchia: ngân hàng được phép hoạt động ngoại hối (ngoại tệ tự do chuyển đổi); ngân hàng được phép tại khu vực biên giới (VND và KHR. Việt Nam – Lào: không phân biệt ngân hàng cung ứng dịch vụ thanh toán tại tỉnh biên giới hay ngoài tỉnh biên giới.
(5) Về phương thức thanh toán, nguyên tắc chung bao gồm nhiều hình thức như thanh toán thông qua ngân hàng (L/C biên mậu, nhờ thu biên mậu, chuyển tiền biên mậu, hối phiếu biên mậu, ủy thác biên mậu, internet banking, QR code…), thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán hàng đổi hàng, tạo sự linh hoạt trong giao thương biên giới.
P.V: Theo bà kết quả hiện tại cơ chế thanh toán qua QR code và thanh toán sử dụng tiền tệ địa phương giữa Việt Nam với các nước diễn ra như thế nào?
PGS-TS: Theo tôi cơ chế thanh toán qua QR code và thanh toán sử dụng tiền tệ địa phương giữa Việt Nam với các nước diễn ra hết sức thuận lợi. Chẳng hạn, Việt Nam - Lào: SBV và BOL đã ra mắt khung hợp tác về thanh toán bằng đồng nội tệ và kết nối thanh toán bán lẻ qua QR code (tháng 1/2025); Việt Nam - Trung Quốc: Năm 2024, NAPAS ký kết MoU với UnionPay International để mở rộng khả năng tương tác QR code; Năm 2025 “Thỏa thuận hợp tác về tăng cường kết nối thanh toán qua mã QR giữa Việt Nam và Trung Quốc” giữa: ICBC, UnionPay, NAPAS và Vietcombank; Việt Nam - Campuchia: Campuchia đang thúc đẩy thỏa thuận với Việt Nam và Lào để sử dụng đồng Riel trong các hoạt động kinh tế thông qua QR code liên kết hệ thống thanh toán nội địa; ASEAN - Liên kết rộng hơn: Sáng kiến ASEAN Integrated QR Code Payment System đã mở đường thúc đẩy kết nối thanh toán QR giữa nhiều quốc gia ASEAN, bao gồm Việt Nam (VietQR), Lào (Lao QR) và Campuchia (KHQR).
P.V: Mặc dù thanh toán biên mậu có nhiều thuận lợi nhưng cũng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, để hạn chế rủi ro theo bà đâu là giải pháp?
PGS-TS: Việc thanh toán biên mậu còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, như: phụ thuộc vào nền kinh tế của các quốc gia láng giềng, liên quan đến an ninh tiền tệ quốc gia, biến động tỷ giá, nguy cơ rửa tiền xuyên biên giới, rủi ro trong quá trình thanh toán và sự thay đổi chính sách của các bên tham gia. Đặc biệt, một rủi ro lớn là việc chuyển tiền trái phép, chẳng hạn như lập hồ sơ chứng từ giả hoặc chậm nộp tờ khai hải quan…
Trên cơ sở đó, để hạn chế rủi ro, Chính phủ và ngành Ngân hàng cần tăng cường hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế vận hành cho việc chấp nhận QR code đa hướng; đồng bộ hóa tiêu chuẩn kỹ thuật, chẳng hạn mã QR phải có dấu hiệu nhận diện rõ ràng để tránh nhầm lẫn giữa “chuyển tiền” và “thanh toán”; đẩy mạnh tính liên thông giữa các hệ thống; xây dựng trung tâm điều phối (hub) có thể do NAPAS chủ trì, đóng vai trò “cầu nối” kỹ thuật giữa các quốc gia nhằm tối ưu hóa kết nối hệ thống QR code; tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng - fintech để xử lý nhanh sự cố và bảo đảm an toàn giao dịch; đồng thời thúc đẩy hình thành nhóm công tác chung cấp ASEAN hoặc tam giác CLV chuyên về thanh toán biên mậu kỹ thuật số.
P.V: Xin trân trọng cảm ơn PGS-TS!
Tạp chí điện tử Hoà Nhập, cơ quan ngôn luận của Hiệp hội Doanh nghiệp của Thương binh và NKT Việt Nam, liên tục cập nhật thông tin liên quan về lĩnh vực kinh doanh của Thương binh và Người khuyết tật như: Đầu tư, kinh doanh, thương mại, dịch vụ, bất động sản, sức khỏe. Ngoài ra, Tạp chí cũng xin giới thiệu tới độc giả những bài viết về chính sách cho người có công, tấm gương thương binh, người khuyết tật vượt khó, doanh nhân thương binh, người khuyết tật tiêu biểu, doanh nghiệp của thương binh và người khuyết tật. Kính mời độc giả đón đọc. Mọi ý kiến đóng góp và chia sẻ xin liên hệ qua email tapchihoanhap@gmail.com.