Cơ hội Ngân hàng Việt gọi vốn ngoại từ EU
Ngày 12/2/2020, Nghị viện châu Âu (EP) đã bỏ phiếu chính thức thông qua Hiệp định Thương mại tự do giữa EU và Việt Nam, còn gọi là Hiệp định EVFTA, đánh dấu kết thúc gần một thập kỉ đàm phán không mệt mỏi giữa hai bên. Hiệp định sẽ chính thức có hiệu lực ngay sau khi được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn, dự kiến vào tháng 5 tới, và phê duyệt từ Ủy ban châu Âu. Đáng lưu ý là trong biên bản ghi nhớ về vốn góp ngân hàng, gồm 5 điều khoản, có qui định rõ: “Liên quan đến việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần của NHTM, trong vòng 5 năm kể từ ngày hiệp định này có hiệu lực, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam sẽ xem xét trên tinh thần thiện chí đề xuất của các TCTD của EU về việc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ tổng số cổ phần trong 2 NHTM cổ phần của Việt Nam lên tới 49% vốn điều lệ của các ngân hàng đó”. Tuy nhiên, điều khoản này không áp dụng đối với 4 NHTM cổ phần mà Chính phủ Việt Nam đang nắm giữ cổ phần chi phối, bao gồm BIDV, VietinBank, Vietcombank và Agribank. Ngoài ra, điều khoản trên cũng chỉ được áp dụng theo thỏa thuận chung và tự nguyện giữa các NHTM cổ phần liên quan của Việt Nam và các TCTD của EU.
Đại diện Vietcombank, Ông Phạm Quang Dũng – Tổng Giám đốc (hàng đầu, bên phải) và đại diện SBF, ông Ho Meng Kit – Giám đốc điều hành ký kết thỏa thuận hợp tác giữa hai bên.
Trong bối cảnh ngành ngân hàng vẫn đang trong giai đoạn tái cấu trúc mạnh mẽ, nhu cầu tìm kiếm cổ đông chiến lược nước ngoài và vốn đầu tư từ quốc tế vẫn rất lớn, thì EVFTA mở ra thêm cơ hội cho các ngân hàng trong nước tìm kiếm thêm đối tác đầu tư, vừa gia tăng nội lực tài chính vừa tranh thủ các mô hình kinh doanh, quản trị và công nghệ từ châu Âu.
Trong những năm trở lại đây, dòng vốn đầu tư quốc tế đổ vào các ngân hàng Việt Nam không phải là nhỏ, tuy nhiên chiếm tỷ trọng vượt trội vẫn là dòng vốn từ phương Đông của những quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước Đông Nam Á.
Nếu nhìn vào danh sách các cổ đông chiến lược nước ngoài của các ngân hàng trong nước, những tên tuổi đến từ phương Tây, đặc biệt từ châu Âu, đang ngày càng khan hiếm.
Trước đây có BNP Paribas của Pháp đầu tư vào NHTM cổ phần Phương Đông (OCB) từ cuối 2007 nhưng đã thoái vốn vào đầu năm 2018. Ngân hàng Societe Generale cũng của Pháp là cổ đông chiến lược của NHTM cổ phần Đông Nam Á (SeABank) từ năm 2008 nhưng cũng đã thoái vốn vào đầu năm 2019.
Một trường hợp khác là cổ đông chiến lược Deutsche Bank Aktiengesellsfchaf tại Habubank từ năm 2007, tuy nhiên sau khi Habubank sáp nhập vào SHB, khoản đầu tư của ngân hàng Đức này sở hữu tại ngân hàng mới đã rớt về dưới 5% và chuyển thành một khoản đầu tư tài chính thông thường.
Vì vậy, EVFTA được kì vọng có thể mở màn cho một làn sóng đầu tư mới từ châu Âu vào ngành ngân hàng Việt Nam. Dù cam kết cho phép sở hữu vượt qui định chỉ ở 2 ngân hàng, nhưng có thể coi là bước thí nghiệm, khảo sát ban đầu, nếu mọi việc diễn biến thuận lợi hơn thì không loại trừ khả năng cơ quan quản lí sẽ mở cửa rộng hơn đối với ngành ngân hàng, từ việc bỏ giới hạn về số lượng ngân hàng ở con số 2 hiện tại cho đến nâng tỉ lệ sở hữu đối với nhà đầu tư nước ngoài cho các ngân hàng còn lại.
Theo quy định tại Nghị định 01/2014/NĐ-CP của Chính phủ, tỉ lệ sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài hiện nay không được vượt quá 20% vốn điều lệ của một TCTD Việt Nam, và tổng tỉ lệ sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại một TCTD trong nước không được vượt quá 30%.
Việc ngân hàng nào sẽ đáp ứng được tiêu chí để các TCTD châu Âu nâng room ngoại lên 49%, thì phía EU sẽ xem xét và Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ cân nhắc.
Một số ý kiến cho rằng những NHTM cổ phần tư nhân có uy tín, hiệu quả hoạt động vượt trội nhất hiện nay sẽ có nhiều lợi thế. Tuy nhiên, những ngân hàng đã từng có cổ đông chiến lược là các tổ chức đến từ châu Âu như đã nói ở trên cũng có thể được chú ý vì có quá trình hoạt động, hợp tác lâu dài với các ngân hàng châu Âu. Thậm chí, những ngân hàng yếu kém đang trong giai đoạn tái cơ cấu cũng có thể trở thành mục tiêu được xem xét, khi cơ chế tự nguyện đã sẵn có trong quy định cam kết.
Không chỉ đón dòng vốn đến từ EU, EVFTA có thể mở đường cho các ngân hàng Việt tăng cường sự hiện diện tại lục địa già, từ việc đơn thân khai phá thị trường cho đến hợp tác với những tổ chức sẵn có tại khu vực. Hiện số lượng ngân hàng Việt Nam có mạng lưới tại châu Âu là rất hiếm hoi, có thể kể đến như VietinBank đã mở chi nhánh tại Đức từ năm 2011, BIDV có văn phòng đại diện tại Nga và Cộng hòa Czech, Vietcombank có văn phòng tại Pháp và Nga, MBBank có văn phòng đại diện tại Nga, tuy nhiên Nga không thuộc EU.
Dù vẫn có ý kiến cho rằng ngân hàng Việt Nam không có nhiều cơ hội tại châu Âu vì qui mô và năng lực không thấm vào đâu so với các ngân hàng của EU. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều ngân hàng trong nước đã tăng trưởng phi mã về qui mô hoạt động, đáp ứng được chuẩn Basel II, do đó khả năng phát triển và mở rộng thêm mạng lưới tại đây trong thời gian tới là rất lớn, nhất là khi nhiều ngân hàng đang đặt mục tiêu quốc tế hóa thị trường hoạt động và vươn lên nhóm ngân hàng hàng đầu của khu vực, theo định hướng phát triển của Chính phủ. Như Vietcombank gần đây đã vươn tay đến Úc và Mỹ, nằm trong tốp 2 ngân hàng có giá trị thương hiệu tăng trưởng cao nhất toàn cầu.
Ngoài ra, EVFTA cũng sẽ kích thích dòng vốn đầu tư quốc tế vào mọi lĩnh vực, ngành nghề khác tại Việt Nam, cũng như mở rộng cơ hội tăng cường giao thương, xuất-nhập khẩu giữa 2 thị trường. Theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, EVFTA sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng khoảng 20% vào năm 2020; 42,7% vào năm 2025 và 44,37% vào năm 2030 so với không có hiệp định. Điều này cũng mang lại lợi ích rất lớn cho hoạt động hiện tại của các ngân hàng, khi có cơ hội mở rộng các sản phẩm, dịch vụ cung cấp hiện tại. Rõ ràng khi dòng vốn ngoại tệ “đổ” vào lớn, những sản phẩm như huy động vốn, kinh doanh ngoại hối sẽ có thêm điều kiện để phát triển. Trong khi đó, cơ hội xuất khẩu gia tăng sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp nội địa mở rộng hoạt động sản xuất, đầu tư, do đó các ngân hàng có thể cho vay vốn nhiều hơn, cũng như các hoạt động chuyển tiền, thanh toán quốc tế, bảo lãnh cũng có thể phát triển mạnh mẽ hơn.
Trong thời gian qua, ngân hàng là một trong những lĩnh vực được các nhà đầu tư (NĐT) ngoại quan tâm và đầu tư nhiều nhất. Điển hình là Hana Bank đã mua 15% cổ phần của BIDV, mới đây nhất là Ngân hàng Aozora của Nhật Bản đang muốn mua 10% cổ phần của OCB. Theo Tổng giám đốc OCB Nguyễn Đình Tùng cho biết, về đối tác chiến lược, thời điểm này các ngân hàng Việt Nam rất cần những nhà đầu tư dài hạn, trường vốn với nguồn lực đầu tư mạnh sẵn sàng khi ngân hàng cần triển khai chiến lược kinh doanh. “Hiện tại OCB chỉ còn chờ NHNN phê duyệt là hoàn tất thương vụ bán cổ phần với Aozora và ngân hàng tiếp tục tìm kiếm đối tác ngoại mới để sử dụng hết 10% room ngoại còn lại của ngân hàng”, lãnh đạo OCB cho hay.
Có thể thấy, việc hoàn tất bán cổ phần cho Aozora của OCB chỉ còn là vấn đề thời gian. Hiện nay, giá cổ phiếu OCB được thỏa thuận trên thị trường OTC dao động vào khoảng 14.000 - 16.000 đồng/cổ phiếu. Nếu chiếu theo giá này, Aozora sẽ phải bỏ ra ít nhất 1.200 tỉ đồng để sở hữu 86,8 triệu cổ phần của OCB. Nhưng theo tiết lộ của lãnh đạo OCB, giá bán cổ phần cho nhà đầu tư này khá tốt, rất có thể số tiền ngân hàng thu về sẽ cao hơn con số tính toán sơ bộ trên.
Ngân hàng hiện là số ít các ngành được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm. Đại diện một quỹ đầu tư tiết lộ, trong hơn 1 năm qua, quỹ này nhận được nhiều đề nghị của các nhà đầu tư ngoại muốn mua cổ phần ngân hàng trong nước.
Ông Lê Đức Khánh, Giám đốc phân tích Trung tâm phân tích CTCK Dầu Khí (PSI) cho biết, các nhà đầu tư ngoại đang ngày càng quan tâm nhiều hơn đến cổ phiếu ngân hàng, thể hiện các mã cổ phiếu nhóm ngành này thu hút dòng tiền lớn từ các nhà đầu tư ngoại như BID, VPB, STB... Lý do cổ phiếu nhóm ngành này tạo sức hút lớn đối với nhà đầu tư ngoại là do yếu tố kinh tế Việt Nam vẫn là một điểm sáng của khu vực, nhu cầu bán cổ phần để tăng vốn của các ngân hàng, triển vọng kinh doanh ngân hàng tốt hơn, NHNN đưa ra lộ trình chặt chẽ đối với tất cả các hoạt động ngân hàng nhất là sở hữu chéo, tỷ lệ sở hữu cổ đông lớn, nhiều ngân hàng áp dụng yêu cầu chuẩn mực Basel II... khiến các nhà đầu tư yên tâm hơn về tính minh bạch, năng lực tài chính của các ngân hàng Việt Nam ngày càng tốt hơn. Từ đó họ gia tăng đầu tư vào các ngân hàng.
Ngoài ra, còn có các nguyên nhân khác đó là việc Chính phủ tuyên bố không cấp phép lập mới các ngân hàng có vốn nước ngoài đến hết năm 2020, đồng thời theo Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025 định hướng đến năm 2030, Nhà nước giảm dần tỉ lệ sở hữu tại các ngân hàng quốc doanh chỉ nắm giữ ở mức tối thiểu 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết; lựa chọn cổ đông chiến lược có uy tín trên thị trường, có năng lực tài chính, kinh nghiệm quản trị...
Hoạt động gọi vốn ngoại được dự đoán là sôi động hơn khi EVFTA đã được Nghị viện châu Âu (EP) thông qua được kì vọng sẽ tác động đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam trong đó có lĩnh vực ngân hàng.
Triển vọng hút vốn ngoại đối với ngân hàng Việt mở ra khi EVFTA được kí kết. Sau khủng hoảng tài chính năm 2008, EU có những quy định rất khắt khe về đầu tư, nhất là đầu tư từ EU ra nước ngoài, cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Cho nên, lợi thế đầu tiên từ hiệp định này chính là bảo hộ đầu tư. Lợi thế này có thể làm cho dòng tiền đầu tư từ EU vào Việt Nam mạnh hơn, bao gồm cả FDI và FII, trong đó có đầu tư về công nghệ mới, công nghệ cao, huy động vốn từ châu Âu thông qua các quỹ đầu tư của Việt Nam cũng hấp dẫn hơn nhờ các quy định bảo hộ đầu tư khá chặt chẽ và an toàn. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng như tác động đến dòng ngoại tệ, tỷ giá hối đoái, lãi suất, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền...
Hiệp định cũng mở ra cơ hội các quỹ đầu tư của EU trực tiếp đầu tư vào hệ thống ngân hàng như: mở chi nhánh, mua cổ phần... Tuy nhiên, theo đánh giá của TS. Nghĩa, mảng đầu tư trực tiếp này chỉ là tiềm năng, có thể chưa sôi động trong ngắn hạn, bởi vì châu Âu đã áp dụng khá đầy đủ quy định của Basel II, thậm chí cả Basel III. Mặt khác, họ cũng có khuynh hướng tái cấu trúc lại các tập đoàn tài chính, các NHTM lớn theo hướng không mở rộng quy mô mà chủ yếu tăng chất lượng tài sản để tránh những xung đột pháp lý, xung đột lợi ích, có thể dẫn tới khủng hoảng./.
Tạp chí điện tử Hoà Nhập, cơ quan ngôn luận của Hiệp hội Doanh nghiệp của Thương binh và NKT Việt Nam, liên tục cập nhật thông tin liên quan về lĩnh vực kinh doanh của Thương binh và Người khuyết tật như: Đầu tư, kinh doanh, thương mại, dịch vụ, bất động sản, sức khỏe. Ngoài ra, Tạp chí cũng xin giới thiệu tới độc giả những bài viết về chính sách cho người có công, tấm gương thương binh, người khuyết tật vượt khó, doanh nhân thương binh, người khuyết tật tiêu biểu, doanh nghiệp của thương binh và người khuyết tật. Kính mời độc giả đón đọc. Mọi ý kiến đóng góp và chia sẻ xin liên hệ qua email tapchihoanhap@gmail.com.