Đại tướng cũng đi chậm giờ ư?

Ảnh minh họa.
Tết năm 1958, văn phòng Trung ương Đảng tổ chức bữa cơm thân mật nhân dịp có nhiều đồng chí mới từ tuyến trên chuyển về.
Mọi người đã đến đông đủ chỉ thiếu đồng chí Văn (Võ Nguyên Giáp) văn phòng có ý muốn chờ một lúc, nhưng Bác bảo:
- Đúng giờ ta cứ ăn cơm! Ai đến chậm để phần.
Mọi người vào phòng ăn... vừa nâng cốc thì đồng chí Văn, quân phục chỉnh tề, nhưng một tay bế cháu nhỏ, một tay dắt cháu bé và theo sau là một cháu lớn. Bác nhìn đồng hồ bảo:
- Chú Văn đi chậm năm phút, Đại tướng cũng đi chậm giờ ư!
- Thưa Bác riêng chủ lực quân thì dễ cơ động, còn các lực lượng dân quân du kích đông đảo thế này, cơ động hơi khó ạ!
- Giỏi, chú ứng biến nhanh đấy! Nếu khéo vận dụng thì đánh giặc nào cũng thắng.
Nói xong, Bác chỉ bàn ăn để phần, hô to:
- Xung trận!
Cả phòng rộn tiếng cười vui vẻ!!!
(Trích: Hồ Chí Minh cứu tinh dân tộc Việt Nam. Nhà xuất bản Trẻ.)
Đôi dép của Bác

Ảnh minh họa.
Đôi dép cao su là hình ảnh rất quen thuộc gắn bó với Bác trong suốt những năm tháng kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc cho tới khi chuyển về sống tại khu Phủ Chủ tịch. Có lần, một đồng chí giúp việc nói với Bác:
- Dạ thưa Bác, đôi dép của Bác đã sửa nhiều lần. Đôi dép bán ngoài phố chỉ với giá ít thôi. Xin Bác cho mua đôi mới.
Bác nhẹ nhàng giải thích:
- Vấn đề không phải là nhiều hay ít tiền mà xem nó có còn dùng được không và đã cần thay chưa. Đôi dép của Bác còn dùng được thì chưa cần thay. Khi nào nó thực sự hỏng thì hãy thay. Đất nước còn nghèo, mỗi người càng phải có ý thức tiết kiệm.
(Trích "Chuyện thường ngày của Bác Hồ" - NXB. Thanh Niên)
Bỏ thuốc lá

Ảnh minh họa.
Hút thuốc lá là thú vui duy nhất của Bác như Bác thường nói. Nhưng từ khi bị bệnh, theo lời khuyên của hội đồng thầy thuốc, Bác có kế hoạch quyết tâm bỏ dần. Bác nói:
- Bác hút thuốc từ lúc còn trẻ nay đã thành thói quen, bây giờ bỏ thì tốt nhưng không dễ, các chú phải giúp Bác bỏ tật xấu này. Rồi Bác tự đề ra chương trình bỏ thuốc dần dần. Lúc đầu là giảm số lượng điếu hút trong ngày. Khi thèm hút thuốc Bác làm một việc gì đó để thu hút sự chú ý, tập trung. Tuổi đã già phải làm như vậy thật quá vất vả. Tập một thói quen, bỏ một thói quen không dễ chút nào.
Phải có một nghị lực phi thường mới làm được. Bác bảo đồng chí giúp việc để cho Bác một vỏ lọ Penixillin ở nơi làm việc và ở phòng nghỉ. Hút chừng nửa điếu Bác dụi đi để vào lọ đó. Sau hút lại nửa điếu để dành, anh em can bảo thuốc lá hút dở không có lợi, Bác bảo: "Nhưng hút thế để có cữ". Với cách làm đó, Bác đã giảm từ cả bao xuống ba bốn điếu một ngày. Cứ như vậy, Bác hút thưa dần.
Đầu tháng 3/1968 nhân khi bị cảm ho nhẹ, Bác tự quyết định bỏ hẳn. Mấy ngày sau, trong một tuần lễ anh em vẫn để gói thuốc chỗ bàn làm việc của Bác, nhưng Bác không dùng.
Sau một tuần thấy Bác quyết tâm như vậy, anh em cất hẳn thuốc lá. Một tháng sau, khi tiếp đồng chí Vũ Quang, lúc ấy là Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Bác nói: Bác đã bỏ quốc lá rồi, chú về vận động thanh niên đừng hút thuốc lá. Sau này Bác có bài thơ Vô đề:
"Thuốc kiêng, rượu cữ đã ba năm,
Không bệnh là tiên sướng tuyệt trần
Mừng thấy miền Nam luôn thắng lớn,
Một năm là cả bốn mùa Xuân"
(Trích "Chuyện kể của những người giúp việc Bác Hồ" - NXB. Thông Tấn)
Các chú có lạnh không?

Ảnh minh họa.
Mùa xuân năm 1969 – mùa xuân cuối cùng trong đời Bác Hồ, chúng tôi được vào thăm Bác tại vườn hoa Phủ Chủ tịch, trong một căn nhà đơn sơ, giản dị.
Cảm tưởng của tôi là không phải đến với một vị Chủ tịch, một vị lãnh tụ vĩ đại, mà là đến với một người cha già thân yêu, với người anh cả trong gia đình lớn.
Ngay từ phút đầu, chúng tôi ngồi quây quần bên Bác trong không khí ấm áp, thân tình. Đồng chí Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đến với chúng tôi. Bác thăm hỏi từng người một và mời chúng tôi ăn hoa quả. Bác hỏi:
- Các chú thấy có lạnh không?
- Thưa Bác, không ạ.
Đối với chúng tôi, tháng Giêng ở Việt Nam quả là không lạnh. Bác nói:
- Không lạnh nhưng rất nguy hiểm.
Nói xong. Bác cởi chiếc khăn quàng của Bác và quàng cho đồng chí Mác Đêphơrin – Chủ tịch Ủy ban Việt Nam hôm ấy đang húng hắng ho. Cử chỉ ấy làm chúng tôi ai nấy đều cảm động, thể hiện những tình cảm của một người cha đối với những đứa con từ phương xa về.
Chúng tôi sung sướng báo cáo với Người về phong trào đoàn kết ủng hộ Việt Nam ở Cộng hòa Dân chủ Đức và trao tặng Bác những món quà của nhân dân nước chúng tôi gửi biếu Bác. Điều lạ là sau hơn bốn chục năm trời – kể từ khi Bác qua hoạt động bên nước chúng tôi – Bác vẫn nói tiếng Đức chính xác.
Suốt đời tôi, tôi sẽ trân trọng giữ trong lòng mình kỷ niệm vô cùng quý báu, đó là bức chân dung mà chính Người đã ký tặng tôi trong lần gặp ấy. Và bên tai tôi lại văng vẳng những tiếng hô “Hồ, Hồ, Hồ Chí Minh” của thanh niên khắp năm châu trong những ngày đại hội liên hoan vừa qua ở Béclin. Nghĩ đến Bác Hồ, nghĩ đến Việt Nam, tôi càng cống hiến nhiều hơn nữa cho Việt Nam và chính vì vậy mà tôi cảm thấy cuộc đời mình đang sống là có ý nghĩa biết ngần nào!
(Trích "Bác Hồ với chiến sĩ" - NXB. Quân đội Nhân dân")
Bác Hồ luyện giọng đọc

Ảnh minh họa.
Ngày 15-11-1968, Bác Hồ tiếp đại biểu cán bộ và công nhân ngành than.
Trước đó, ngày 4-11, Bác bị ho, bãi nhổ thấy có máu. Các bác sĩ vào khám cho Bác, cho biết: Họng vỡ tia máu, phải bôi thuốc. Từ đó, tiếng nói của Bác yếu hẳn đi.
Vì sức khỏe, Bác không xuống Quảng Ninh trực tiếp gặp gỡ cán bộ và công nhân ngành than được, nên Người đã cử Thủ tướng Phạm Văn Ðồng xuống gặp gỡ và làm việc với anh em công nhân, sau đó mời một đoàn đại biểu của ngành than lên làm việc với Bác.
Bác Hồ không muốn vì tiếng nói của mình yếu có thể gây lo lắng cho cán bộ và đồng bào, nên một mặt Bác dặn phải chuẩn bị máy phóng thanh cho tốt, để dù Bác có nói yếu, mọi người vẫn nghe rõ, mà không biết Bác mệt; hai là Bác tiến hành luyện đọc, sao cho to giọng, tròn tiếng để chuẩn bị gặp gỡ cán bộ ngành than.
Từ ngày 5-11, mỗi buổi sáng sau khi rửa mặt xong, Bác vào phòng làm việc của đồng chí Vũ Kỳ, cầm quyển "Kiều" và tập đọc to thành tiếng.
Bác nói với đồng chí bảo vệ:
- Chú đứng thật xa ra để nghe Bác đọc, xem nghe có rõ không? Nếu nghe không rõ, sẽ xích gần thêm lại, đến lúc thật rõ thì dừng lại để xem khoảng cách là bao nhiêu.
Ðồng chí bảo vệ đi ra. Bác đọc:
- Trăm năm trong cõi người ta!
Chữ tài chữ mệnh khéo là yêu nhau!
Sau đó, Bác gọi đồng chí bảo vệ lại, hỏi:
- Bác đọc chú nghe có rõ không?
- Thưa Bác, rõ ạ.
- Chú thử nói lại xem Bác đọc câu gì?
Ðồng chí bảo vệ đọc lại đúng nguyên văn câu Kiều:
"Trăm năm... khéo là ghét nhau!".
- Ðấy, chú có nghe thấy rõ Bác đọc cái gì đâu?
Và từ đó liên tục Bác luyện đọc vào các buổi sáng.
15 giờ chiều 15-11-1968, Bác tiếp đại biểu ngành than. Khoảng 14 giờ 30 phút, đồng chí Nguyễn Hữu Mai, Bộ trưởng Ðiện và Than, vào báo cáo chương trình làm việc với Bác. Người nói với đồng chí Nguyễn Hữu Mai:
- Chú là Bộ trưởng, chỗ đứng của chú không phải là ở bên Bác. Chỗ đứng của chú là ở cuối phòng. Chú nghe Bác nói, nếu không được rõ chú giơ tay làm hiệu, lúc đó Bác sẽ cố gắng nói to hơn để mọi người đều có thể nghe được rõ hơn.
Sau này, đồng chí Nguyễn Hữu Mai trầm trồ mãi: Thật là một bài học lớn cho cuộc đời làm Bộ trưởng của tôi! Mình có nghe rõ mới biết quần chúng có nghe được hay không.
May mắn lớn là hôm đó, đồng chí Mai không phải giơ tay làm hiệu lần nào. Ðó là kết quả cố gắng rèn luyện của Bác, và bài học lớn Bác truyền lại cho chúng ta: Nói với quần chúng, không phải chỉ quan tâm đến nội dung, câu chữ, mà còn cả giọng điệu nữa, để xem cuối cùng nó có đến được với quần chúng không.
Tính mục đích, tính thiết thực, tính hiệu quả của nói và viết ở Bác Hồ nhất quán là như vậy.
(Trích "Bác Hồ con người và phong cách" - NXB. Lao Động)
Chiếc máy điều hòa đặt trong phòng Bác

Ảnh minh họa.
Được ở gần Bác chúng tôi chứng kiến một điều đặc biệt: dù trời đông giá rét hay ngày hè nóng nực, không bao giờ thấy Bác kêu nóng hay rét quá.
Dịp may hiếm có, trong lúc chúng tôi đang nghĩ cách chống nóng cho Bác thì các đồng chí bên Bộ Ngoại giao công tác ở nước ngoài gửi biếu Bác chiếc máy điều hòa nhiệt độ. Khi nhận máy về, từ các anh ở văn phòng Bác đến anh em phục vụ, bảo vệ đều vui mừng thấy như các đồng chí bên ngoại giao đã giúp mình tìm ra đáp số một bài toán khó.
Lúc đó Bác đi công tác vắng. Các anh quyết định cho lắp máy điều hòa vào phòng của Bác, định khi Bác về xin phép sau. Các đồng chí thợ điện tích cực làm việc, chỉ một buổi sáng chiếc máy đã được đặt gọn vào tường trong phòng làm việc của Bác.
Cầu dao điện vừa đóng, tiếng máy chạy ro ro, giống như có bầy ong về tổ. Lúc đó ở Hà Nội máy điều hòa còn hiếm, anh em chúng tôi nhiều người mới biết lần đầu, cứ tấm tắc khen.
Tuy vậy chúng tôi vẫn hồi hộp chờ ý kiến của Bác, bởi lẽ chúng tôi đều biết Bác sống rất giản dị. Những tiện nghi trung ương dành cho Bác, thứ nào thật cần thiết Bác mới dùng.
...Như chiếc xe Pôbêđa của Bác đã cũ, Văn phòng trung ương xin phép được đổi cho Bác xe khác mới và tốt hơn. Bác hỏi đồng chí lái xe:
- Xe của Bác đã hỏng chưa?
Đồng chí lái xe thành thật:
- Thưa Bác, xe chưa hỏng nhưng chúng cháu muốn đổi xe mới để Bác đi nhanh và êm hơn.
Bác cười bảo:
- Thế thì chưa đổi... Ai thích đi nhanh thì đổi xe mới, còn Bác vẫn dùng xe này vì nó chưa hỏng.
Một hôm sắp đến giờ Bác đi làm việc mà xe chưa nổ máy được. Thấy Bác đứng đợi, đồng chí lái xe rất lo lắng. Đoán xe có sự cố, Bác bước lại gần ân cần bảo đồng chí lái xe: “Máy móc thì có lúc nó trục trặc, chú cứ bình tĩnh sửa”. Vài phút sau xe sửa xong, đồng chí lái xe xin lỗi Bác, Bác cười độ lượng: “Thế là xe Bác vẫn còn tốt. Lần sau chú nhớ kiểm tra trước kẻo nhỡ việc của Bác”.
Chiếc xe ấy Bác dùng cho đến ngày Người đi xa...
Còn chiếc máy điều hòa đang làm mát cả phòng của Bác sẽ ra sao? Chúng tôi hồi hộp chờ đợi. Lần ấy Bác đi công tác độ một tuần mà chúng tôi cảm thấy như đã dài hàng tháng.
Nghe tin Bác về, chúng tôi chạy ra đón.
Sau khi thăm hỏi anh em, Bác đi về phòng ở. Vừa bước vào phòng, chợt Bác dừng lại, hỏi:
- Các chú này, hôm nay nhà mình có mùi gì lạ quá?
Chúng tôi nhìn nhau, chưa ai trả lời câu hỏi của Bác. Chính tôi cũng chưa phát hiện được điều gì. Sau này hỏi các đồng chí thợ điện mới biết chiếc máy điều hòa do một nước phương Tây sản xuất, chất lượng máy tốt, hình dáng đẹp nhưng muốn làm vui lòng khách, trong máy họ gắn thêm một bình bơm tự động có chứa nước hoa. Khi máy vận hành, van mở, nước hoa theo gió tỏa ra nên trong phòng lúc nào cũng phảng phất mùi thơm. Nếu ai không chú ý thì chỉ cảm thấy như quanh đây có mùi hoa lan, hoa huệ vậy. Biết không giấu được Bác, anh Vũ Kỳ (thư ký của Bác) và các đồng chí phục vụ xin lỗi Bác, rồi trình bày rõ lý do về chiếc máy điều hòa nhiệt độ. Không thấy Bác tỏ thái độ gì, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng chỉ đến đầu giờ làm việc chiều hôm ấy, Bác cho gọi anh Vũ Kỳ đến và ân cần bảo:
- Chiếc máy điều hòa nhiệt độ tốt đấy, các chú có thể đem đến cho quân y viện hoặc trại điều dưỡng thương binh. Hôm trước Bác đến thăm thấy các chú ấy ở nóng lắm. Còn Bác thì chưa cần, Bác ở thế này là được rồi.
Tôi nghe Bác nói với anh Vũ Kỳ mà cảm giác như bước đi của mình bị hẫng.
Tôi rất muốn được thưa với Bác nhưng chưa được phép vì Bác đang làm việc với anh Vũ Kỳ. Khoảnh khắc ấy tôi bỗng nhớ lần Bác đến thăm trại điều dưỡng thương binh ở Hà Nội. Hôm ấy Bác đến thăm bất ngờ, Bác đi thẳng vào một dãy nhà anh em đang nghỉ và điều trị. Tin Bác đến thăm nhanh chóng lan ra cả trại. Từ các dãy nhà bên anh em kéo đến mỗi lúc một đông, ai cũng muốn được gần Bác. Thật cảm động, có những đồng chí cố len vào mong được gần Bác, quên cả mình đang phải dùng nạng thay chân.
Đang lúc Bác thăm hỏi sức khỏe anh em thì có một đồng chí thương binh hỏng mắt nhờ đồng chí y tá xin được vào gần Bác. Tôi bước lại đỡ đồng chí, vừa quay lại thì Bác cũng đi tới. Bác đưa tay đón đồng chí thương binh. Hình như có linh cảm đặc biệt, đồng chí thương binh hỏng mắt bước tới ôm chầm lấy Bác, nghẹn ngào hai tiếng: “Bác ơi”. Hai dòng nước mắt lăn xuống gò má còn chưa lành hẳn vết thương khiến chúng tôi không nén được xúc động. Bác cũng lặng đi giây lát rồi Người thăm hỏi đồng chí thương binh hỏng mắt và các đồng chí đang có mặt. Không khí trở lại vui vẻ như lúc ban đầu.
Sau đó Bác đi đến các dãy nhà thăm các anh, chị em mà vết thương nặng còn phải nằm bất động. Buổi chiều hôm ấy trời nóng, Bác vừa hỏi chuyện vừa cầm chiếc quạt giấy của Bác quạt cho anh em. Nhiều đồng chí xúc động cứ nhìn Bác mãi không nói được. Hôm ấy trên xe trở về nhà, tôi thấy Bác vẫn còn xúc động. Giờ đây trong căn phòng mát mẻ, chắc Bác chạnh lòng nghĩ đến các đồng chí thương binh.
Anh Vũ Kỳ và các đồng chí phục vụ đã hết lời đề nghị nhưng Bác vẫn không thay đổi ý kiến. Thế là ngay buổi chiều hôm ấy chiếc máy điều hòa được đưa ra khỏi căn phòng của Bác.
Bác Hồ là người luôn luôn dành những tình cảm và sự quan tâm chăm sóc của mình đối với các đồng chí thương bệnh binh, những người đã vì độc lập tự do của dân tộc mà hy sinh một phần thân thể của mình trên chiến trường. Những món quà và tình cảm của Bác đã động viên các đồng chí rất nhiều trong cuộc sống, lao động và học tập, giúp họ thực hiện tốt lời dạy của Người "Thương binh tàn nhưng không phế".
(Trích "Chuyện kể của những người giúp việc Bác Hồ" - NXB. Thông Tấn)
Làm việc ở ngoài hiên

Ảnh minh họa.
Một chuyện điển hình về Chủ tịch Hồ Chí Minh là sau khi kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Người đã đặt Văn phòng Chủ tịch ở một căn nhà nguyên là chỗ ở của những nhân viên phục vụ Phủ Toàn quyền của Pháp trước đây. Còn Phủ Toàn quyền, Người chỉ chuyên dành cho các cuộc tiếp đãi chính thức.
Khi tôi hỏi Người: “Văn phòng của Chủ tịch nước ở đâu?” Câu trả lời của Người làm tôi kinh ngạc: “Lúc nào trời sáng thì ở ngoài hiên, khi trời mưa thì ở trong buồng ngủ”.
Sự thực là Người không có một ngôi nhà nào khác. Khi tôi đến thăm Người mặc bộ quần áo vải nâu mà những nông dân thường mặc và đi đôi dép cao su lốp ô tô, Người ra đón tôi như đón một người quen cũ. Tác phong giản dị, không cầu kỳ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời không thay đổi.
(Trích "Người là Hồ Chí Minh" - NXB. Hội nhà văn)