Khác với việc vay vốn được thế chấp bằng các tài sản như: bất động sản, tài sản là máy móc, nhà xưởng….. Việc vay vốn, thế chấp bằng cổ phần, cổ phiếu đã được pháp luật quy định. Tuy nhiên rất cần làm rõ trong “kho” tài sản thế chấp có giá trị lớn của các NH, còn bao nhiêu tài sản như thế, để từ đó có những giải pháp kịp thời hạn chế các rủi ro trong tương lai….
Sacoombank ký kết hợp tác toàn diện với Bamboo Airways
Sau khi thông tin ông Trịnh Văn Quyết – Chủ tịch HĐQT FLC Group bị bắt về tội thao túng thị trường chứng khoán, nhiều khoản nợ khủng của FLC cũng được phơi bày. Nhiều nhà băng đã cho FLC vay khối lương vốn rất lớn lên tới hàng nghìn tỷ đồng, nhưng lại nhận thế chấp bằng “niềm tin” – thế chấp bằng cổ phần, cổ phiếu... khiến dư luận hoài nghi về tính an toàn của các khoản cho vay này và sự an toàn của hệ thống.
Trong số các ngân hàng cho FLC và hệ sinh thái của FLC vay nghìn tỷ phải kể đến Sacombank cho FLC và Bamboo Airways hơn 5.000 tỷ; bà Nguyễn Đức Thạch Diễm – Tổng giám đốc Sacombank, cho rằng các khoản vay này được giải ngân với tinh thần đồng hành cùng doanh nghiệp hàng không, bất động sản du lịch hồi phục sau đại dịch. Tài sản đảm bảo các khoản vay là cổ phiếu.
Đứng sau Sacombank, là BIDV có dư nợ 1.721 tỷ đồng với FLC tại thời điểm 31/3, các khoản vay này của FLC đều được thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Đứng thứ 3 là ngân hàng TMCP Quốc Dân NCB, cho FLC vay 1.636 tỷ đồng, tăng 1.002 tỷ so với cuối năm trước, điều đáng nói những khoản vay này của FLC phần lớn được thế chấp bằng cổ phiếu của FLC và cổ phiếu thuộc hệ sinh thái của FLC... OCB là chủ nợ lớn thứ 4 khi cho FLC vay 1.532 tỷ đồng tài sản bảo đảm gồm các khoản tiền gửi và cổ phiếu BAV do CTCP Hàng không Tre Việt (Bamboo Airways) phát hành. Trong số này có 5,06 triệu cổ phiếu do ông Trịnh Văn Quyết và vợ là bà Lê Thị Ngọc Diệp (vợ ông Quyết) sở hữu, và 13 triệu cổ phiếu do Tập đoàn FLC sở hữu....
Tập đoàn FLC ký hợp tác chiến lược với Ngân hàng TMCP Phương Đông
Không chỉ ông Trinh Văn Quyết – Chủ tịch FLC vay vốn và thế chấp bằng cổ phiếu. Mà trước đó vào năm 2012,Công ty thép Hòa Phát (thuộc Tập đoàn Hòa Phát – HPG) cũng thế chấp 20 triệu cổ phiếu của ông Nguyễn Đức Kiên tại ACB để được nhà băng này cấp vốn. Nhưng tiếc thay, chính lô cổ phiếu đang thế chấp tại ACB này của Hòa Phát lại được chào bán và không ai khác HPG lại chính là đơn vị bỏ số tiền 264 tỷ đồng để mua số cổ phiếu của chính mình, khiến dư luận sửng sốt. Nội dung này đã được bà Nguyễn Thị Thảo Nguyên, Phó tổng giám đốc trả lời nhà đầu tư và báo chí về việc Tập đoàn Hòa Phát có là bên nhận chuyển nhượng cổ phần đã bị thế chấp của Công ty cổ phần đầu tư ACB Hà Nội hay không. Sự việc này cả HPG và ACB đều khẳng định họ vẫn đang nắm giữ số cổ phần này.

Ai đúng – ai sai thì chưa rõ nhưng câu hỏi đặt ra là, làm sao một lô cổ phiếu đã được thế chấp lại có thể mang đi bán dễ dàng như vậy? Khâu không thể thiếu trong quản trị rủi ro ở các NH là: nguyên tắc, khi nhận cầm cố, thế chấp bằng cổ phần, cổ phiếu, chứng khoán, ngân hàng và người cầm cố phải mang sổ cổ đông đến công ty để phong tỏa số cổ phần, cổ phiếu này. Chủ tịch HĐQT và kế toán của công ty sẽ ký xác nhận và khi đó, số cổ phần này không được quyền chuyển nhượng. Việc này cũng như khi thế chấp bằng bất động sản, hai bên phải làm thủ tục công chứng để bảo đảm bất động sản đó không được tiếp tục sang nhượng hay mang đi thế chấp ở nơi khác. Nếu không thực hiện các thủ tục này, chủ sở hữu hoàn toàn có thể làm đơn trình báo mất để xin cấp lại giấy tờ. Khi đó, NH sẽ mất trắng.

Nếu làm đúng nguyên tắc nói trên, cổ phần của ông Nguyễn Đức Kiên đã thế chấp ở ACB không thể tiếp tục sang nhượng cho HPG. Nhưng nếu ACB đã thực hiện phong tỏa số cổ phần này thì HPG càng không thể “dễ dàng” bỏ ra 264 tỉ đồng để mua số cổ phần này khi họ sở hữu tới 85% cổ phần Công ty thép Hòa Phát, đơn vị ký xác nhận phong tỏa số cổ phần.
Như vậy, có thể xảy ra 2 khả năng, hoặc là số cổ phần này đã không được phong tỏa, HPG thắng thế vì cổ phần vẫn ở trong tay họ. Cũng có nghĩa là cổ phần cầm cố ở ACB thực tế chỉ còn là tờ giấy không hơn không kém và ACB sẽ bị mất vốn. Ngược lại, nếu ACB đúng thì HPG là người mất vốn.
Vậy không lẽ khi HPG bỏ ra số tiền 264 tỷ đồng để mua 20 triệu cổ phần của Công ty thép Hòa Phát, HPG lại không làm thủ tục chuyển giao sở hữu (sang tên)? Nếu thiếu bước quan trọng này, người bán hoàn toàn có thể đi bán cho người khác nữa.
Trong khi thông thường, ngay cả ra công chứng thì người mua cũng phải “chắc ăn” đến độ, chuyển tên xong mới giao tiền, thì hà cớ gì HPG lại chấp nhận rủi ro đơn cực và lớn về mình như vậy? Phải chăng áp lực của cổ đông lớn hay thương hiệu khiến NH bỏ qua cả những chuẩn mực về quản trị rủi ro trong việc cấp vốn?
Ví dụ trên cho thấy rủi ro của những hợp đồng mua bán, cầm cố, thế chấp để vay vốn NH bằng cổ phần, cổ phiếu, chứng khoán là hiện hữu. Nguy hiểm hơn là tình trạng có những cá nhân là cổ đông lớn của chính cổ phần mà họ mang đi giao dịch với ngân hàng để vay vốn. Họ hoàn toàn có thể tự ký xác nhận phong tỏa cho một nơi rồi tiếp tục ký hợp đồng bán cho một nơi khác cho cùng một lô cổ phần.
Phải chăng minh chứng cho thấy là Công ty thép Hòa Phát, một tay ký xác nhận phong tỏa lô 20 triệu cổ phần của Công ty khi mang cầm cố ngân hàng, còn tay kia vẫn ký bán chính lô cổ phiếu này cho HPG.
Đây là một chỉ dấu quan trọng cho thấy rủi ro về việc nhận thế chấp bằng cổ phần, cổ phiếu, chứng khoán đối với các tổ chức tín dụng. Vì hiện nay trong “kho” của nhiều NH, tài sản thế chấp, đảm bảo bằng cổ phần, cổ phiếu, chứng thư bảo lãnh cho các hợp đồng vay vốn nhưng rất nhiều cổ phiếu, cổ phần, chứng thư có nguy cơ chỉ là tờ giấy không hơn không kém.
Một thực tế là hiện tại trong hệ thống ngân hàng của Việt Nam đang tồn tại một thực tế là các ngân hàng mua chéo trái phiếu, hoặc bảo lãnh trái phiếu….việc cho vay vốn này của các ngân hàng thương mại cũng tiềm ẩn rủi ro chẳng kém gì việc thế chấp bằng cổ phần, cổ phiếu…
Với những ví dụ cụ thể ở trên, còn quá nhiều điều cần phải được làm rõ và chấn chỉnh trong việc làm lành mạnh hoạt động của các NH.