PV: Tôi sinh ra ở Gia Lai, gia đình trước đây cũng có một vườn mì nên phần nào hiểu cây mì quan trọng thế nào với đời sống nông dân. Dưới góc nhìn của một người gắn bó lâu năm với ngành sắn, ông đánh giá vai trò cây mì ra sao trong sinh kế vùng biên Việt Nam – Campuchia?
Ông Lê Hữu Hùng: Với trải nghiệm của tôi, cây mì đúng là cây trụ cột nuôi sống nông dân thu nhập thấp, đặc biệt ở các vùng biên giới, vùng đất xấu. Vốn đầu tư ít, kỹ thuật không quá phức tạp, chịu hạn, chịu được đất nghèo dinh dưỡng nên những hộ ít vốn, ít kinh nghiệm vẫn bám được.
Nếu nói về kinh tế nông thôn dọc biên giới Việt Nam – Campuchia mà bỏ qua cây mì thì không phản ánh đúng thực tế đời sống của hàng chục ngàn hộ nông dân.

Ông Lê Hữu Hùng – Phó Chủ tịch Hiệp hội sắn Việt Nam
PV: Ông nhiều lần nhắc tới chuyện “mất diện tích mì là rất khó lấy lại”. Cụ thể vì sao lại như vậy?
Ông Lê Hữu Hùng: Diện tích mì mất đi thì rất dễ, nhưng lấy lại thì gần như không. Khi giá mì xuống thấp, nông dân bỏ mì chuyển sang cây khác – ví dụ cao su, điều, cây ăn trái… – thì rất khó thuyết phục họ quay lại.
Đất phù hợp với mì thật ra cũng không phải chỗ nào trồng cây khác cũng được. Nhiều vùng chỉ hợp với vài loại cây cạn nhất định. Nếu trong thời gian giá xuống, chúng ta không có cơ chế giữ nông dân trụ lại, để họ chặt mì đi, thì đến khi thế giới thiếu hàng, giá lên lại, diện tích đó đã mất rồi, không thể “bật công tắc” là có liền được.

PV: So với các nước trong khu vực, năng suất và diện tích mì của Việt Nam, Campuchia, Thái Lan hiện nay ở mức nào, thưa ông?
Ông Lê Hữu Hùng: Tây Ninh bây giờ năng suất mì đã gần 35 tấn/ha – đó là kết quả của cả quá trình cải thiện giống, phân bón, kỹ thuật. Nhưng bên Campuchia hiện mới dưới 20 tấn/ha, nghĩa là dư địa tăng trưởng còn rất lớn nếu được hỗ trợ đúng cách.
Về diện tích, Thái Lan đang trên 1 triệu ha, lớn nhất thế giới. Việt Nam dưới 600.000 ha. Campuchia khoảng 800.000 ha. Nếu không có nguồn nguyên liệu từ Campuchia thì Việt Nam rất khó giữ được vị trí nước xuất khẩu tinh bột mì lớn thứ hai thế giới. Nói thẳng là chuỗi nhà máy tinh bột của chúng ta đang dựa rất nhiều vào vùng nguyên liệu bên kia biên giới.

PV: Thị trường Trung Quốc đang chi phối ngành sắn của cả vùng như thế nào, theo góc nhìn của ông?
Ông Lê Hữu Hùng: Phần lớn tinh bột mì, sắn lát trong khu vực hiện vẫn đi vào Trung Quốc. Đây là thị trường khổng lồ và họ nắm thông tin rất chi tiết: tồn kho ở Việt Nam bao nhiêu, Thái Lan bao nhiêu, Indonesia, Malaysia ra sao…
Khi họ thấy một nơi đang ôm hàng lớn, họ có thể ép giá rất mạnh. Doanh nghiệp thì chịu áp lực vốn, lãi ngân hàng, đến hạn trả nợ là phải xả hàng cho bằng được. Một đơn vị bán rẻ xuống thì lập tức kéo mặt bằng giá của cả vùng đi xuống. Cứ như vậy, chuỗi giá trị của mình bị kẹt trong vòng xoáy “bán bột giá rẻ cho Trung Quốc”.
PV: Trong bối cảnh đó, Thái Lan đang làm gì khác Việt Nam mà chúng ta cần lưu ý?
Ông Lê Hữu Hùng: Thái Lan làm rất bài bản. Họ có hệ thống hiệp hội ngành đầy đủ: hiệp hội nông dân trồng mì, hiệp hội tinh bột, hiệp hội xuất khẩu… Các tổ chức này đều có tiếng nói và được Chính phủ hỗ trợ về chính sách, tín dụng, kho tạm trữ.
Ví dụ khi giá xuống, một nhà máy tồn kho 5.000 tấn, thay vì phải bán phá giá, hiệp hội hoặc các quỹ có thể đứng ra mua giữ lại, hỗ trợ lãi suất… Nhà máy không bị “nghẹt thở” vì vốn, nông dân không bị rơi vào cảnh giá rơi tự do.
Trong khi đó, ở Việt Nam, diện tích nhỏ hơn mà số nhà máy lại nhiều, cơ chế hỗ trợ tương tự gần như chưa có. Một đơn vị phải bán rẻ để trả nợ ngân hàng là kéo giá của hàng chục đơn vị khác đi xuống theo.

PV: Từ thực tế đó, theo ông ngành sắn Việt Nam – Campuchia cần những thay đổi nào về chính sách và tổ chức?
Ông Lê Hữu Hùng: Trước hết là phải nhìn cây mì như một ngành kinh tế nghiêm túc, chứ không phải “cây gần hàng rào”. Nó đang nuôi sống rất nhiều hộ nông dân thu nhập thấp.
Thứ hai là cần một hiệp hội ngành sắn đủ mạnh, thật sự đại diện cho doanh nghiệp và nông dân, làm việc trực tiếp với Chính phủ để xây dựng cơ chế tín dụng ưu đãi, quỹ bình ổn giá, chính sách kho bãi, logistics, tồn trữ. Khi có quỹ đủ lớn, có công cụ tài chính phù hợp, doanh nghiệp mới dám giữ hàng, không bị buộc phải bán tháo mỗi lần giá hơi nhích xuống.
Song song, cần phối hợp với Campuchia trong quy hoạch vùng nguyên liệu, chuyển giao giống, kỹ thuật, tối ưu logistics và thủ tục biên giới… để tạo thành một “cụm liên kết ngành sắn” của cả tiểu vùng Mekong, chứ không phải mỗi nước làm một mảnh, mạnh ai nấy làm.

PV: Nhiều doanh nghiệp mới muốn nhảy vào ngành sắn sau khi giá lên, ông nhìn nhận câu chuyện này ra sao?
Ông Lê Hữu Hùng: Ngành nào cũng vậy, cứ thấy giá tốt là doanh nghiệp mới muốn nhảy vào. Nhưng thực tế ở Việt Nam bây giờ, diện tích đất trồng mì có hạn, trong khi số nhà máy chế biến tinh bột đã… dư rồi. Chính phủ cũng đã “thắng phanh”, gần như không cho mở thêm nhà máy tinh bột nữa, vì nguồn nguyên liệu không đủ để chia.
Nếu cứ cho mở ào ạt, không gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu thì tới lúc giá quay đầu, chính những doanh nghiệp mới, ít kinh nghiệm, thiếu vốn sẽ “đau” đầu tiên, rồi kéo cả chuỗi đi xuống.
Theo tôi, giai đoạn này hợp lý nhất là tập trung nâng chất hệ thống nhà máy hiện có, khuyến khích họ liên kết với nhau, chia sẻ kho bãi, thông tin thị trường, cùng tham gia các cơ chế dự trữ chung do hiệp hội điều phối – hơn là cấp phép thêm tràn lan.
PV: Trong chuyến làm việc này, việc ký kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam – Campuchia mang lại ý nghĩa gì cho chuỗi sắn vùng biên?
Ông Lê Hữu Hùng: Lần này chúng ta không chỉ dừng ở mức mua – bán từng lô hàng riêng lẻ nữa, mà là ký ở cấp liên đoàn – hiệp hội, với sự chứng kiến của lãnh đạo cấp cao hai nước.
Chuỗi hợp đồng nguyên tắc nhiều triệu tấn giữa doanh nghiệp Campuchia và Tây Ninh cho thấy một bước chuyển rất rõ: hai bên cam kết xây dựng vùng nguyên liệu ổn định lâu dài, có kế hoạch đầu tư giống, phân bón, kỹ thuật, logistics… chứ không phải “nay có mai không”.
Nếu thực hiện nghiêm túc, đây có thể là nền tảng để hình thành một cụm liên kết ngành sắn của cả tiểu vùng Mekong, trong đó Campuchia là “vùng trồng”, Tây Ninh và các địa phương Việt Nam là “vùng chế biến”, cùng chia sẻ lợi ích và rủi ro.

PV: Nếu phải nói một câu ngắn gọn nhất về cây mì, ông sẽ nói gì?
Ông Lê Hữu Hùng: Tôi vẫn hay nói với anh em: Cây mì là cây nuôi sống nông dân bình dân. Những người có điều kiện, có kỹ thuật cao thì có thể chọn nhiều loại cây khác, nhưng phần đông bà con vùng biên, vùng xa – ít vốn, ít kỹ năng – đang sống được nhờ cây mì.
Nếu chúng ta biết trân trọng, tổ chức lại cho bài bản và có chính sách hỗ trợ đúng, thì cây mì không chỉ giúp họ “qua ngày”, mà hoàn toàn có thể trở thành nền tảng cho một chiến lược phát triển kinh tế nông thôn bền vững cho cả Việt Nam và Campuchia.