Hiện nay, cả nước có khoảng 13 dự án điện LNG đã được Thủ tướng phê duyệt trong Danh mục các dự án quan trọng, ưu tiên đầu tư của ngành điện (tại Quyết định số: 500/QĐ-TTg). Theo đó, tới năm 2030 sẽ có 22.400 MW điện khí LNG, chiếm 14,9% tổng nguồn điện của cả nước, với năng lực sản xuất 83 tỷ kWh. So với các nước phát triển trên thế giới, ngành công nghiệp khí của Việt Nam còn trong giai đoạn đang phát triển. Do đó, thị trường LNG Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức.
Việt Nam hiện chưa có cơ sở khai thác và hóa lỏng nên hạ tầng LNG chủ yếu tập trung ở khâu nhập khẩu, lưu trữ và tái khí hóa. Do đó, theo TS. Nguyễn Thành Sơn - chuyên gia tư vấn độc lập về năng lượng - Việt Nam phải cạnh tranh với ba quốc gia đứng đầu thế giới về nhập khẩu LNG là Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Ông Sơn cũng chỉ ra thách thức cho Việt Nam về những rủi ro khủng hoảng năng lượng trên thế giới. LNG có vai trò ngày càng tăng trong giải quyết các cuộc khủng hoảng liên quan đến an ninh năng lượng của các quốc gia trong thập kỷ qua. Các yếu tố chính của cuộc khủng hoảng năng lượng, trong đó LNG đóng vai trò “bù đắp” cho việc thiếu năng lượng sản xuất, gồm thảm họa thiên tai; sự phức tạp của tình hình địa chính trị... Đặc biệt, trong bối cảnh phức tạp quan hệ địa chính trị giữa Nga và châu Âu, một cuộc khủng hoảng năng lượng mới đã nảy sinh ở Liên minh châu Âu (EU) do khu vực này quyết định đột ngột từ bỏ đường ống dẫn khí đốt của Nga, đồng thời đẩy mạnh nhập khẩu LNG từ các nước khác. Vì vậy, hiện tại một số nước EU đã ký hợp đồng xây dựng thêm công suất tái hóa khí và chi phí LNG năm nay đã phá kỷ lục lịch sử.
Ở trong nước, ông Lã Hồng Kỳ (Văn phòng Ban chỉ đạo Nhà nước các dự án ngành năng lượng) đã chỉ ra các khó khăn liên quan đến địa phương, như một số tỉnh (Thanh Hóa, Nghệ An và Ninh Thuận) chưa tiến hành lựa chọn được nhà đầu tư do còn lúng túng, chậm trễ trong công tác phê duyệt chủ trương đầu tư, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.

Nghệ An đang lên kế hoạch xây dựng dự án nhà máy nhiệt điện khí LNG trị giá hơn 2 tỷ USD (Ảnh: VietnamPlus)
Cùng với đó là khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, điều chỉnh quy hoạch cục bộ, công tác bàn giao đất, cho thuê đất với dự án nguồn và tuyến đường dây đấu nối đồng bộ để giải tỏa công suất cho các dự án. Ngoài ra, hiện trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 (Quy hoạch điện 8) và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện 8, một số đường dây đấu nối đồng bộ để giải tỏa công suất cho các dự án nhà máy điện lớn chưa được giao chủ đầu tư, ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện các dự án đường dây và việc đàm phán các thỏa thuận đấu nối giải tỏa công suất cho một số dự án điện khí.
Các chủ đầu tư đã được giao dự án đều gặp khó khăn trong thu xếp vốn vay do phải đáp ứng các yêu cầu của tổ chức tín dụng. Thực tế, các dự án điện khí hiện nay, trừ dự án Nhơn Trạch 3 và 4, đang sử dụng hợp đồng mua bán điện (PPA) của dự án để đi thu xếp toàn bộ vốn vay cho dự án. Còn lại chưa có dự án điện khí nào hoàn thành việc đàm phán, ký kết hợp đồng PPA với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) do còn một số vướng mắc như việc chuyển ngang cam kết sản lượng mua khí từ hợp đồng mua khí sang hợp đồng mua điện, hay vấn đề chuyển ngang giá khí sang giá điện.
Việt Nam tham gia vào thị trường LNG của thế giới tương đối muộn và với quy mô nhỏ bé. Về sức mua, nguồn cung - giá thành phát điện bằng LNG cao, trong khi khả năng chi trả còn thấp.
TS. Nguyễn Quốc Thập – Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam (VPA) - cho rằng, doanh nghiệp cần nhận thức được điện khí LNG không chỉ có kho cảng LNG và nhà máy điện mà cần được hấp thụ bởi các khu, cụm công nghiệp và các nhà máy. Ngoài ra, điện khí LNG cần được vận hành theo thông lệ quốc tế, đó là thị trường và thị trường dài hạn.
Thị trường tiêu thụ điện cần được mở rộng và phát triển theo sát với mục tiêu trong các quy hoạch điện: Quy hoạch, xây dựng tập trung và đồng bộ cụm kho cảng LNG, nhà máy điện và các khu công nghiệp/nhà máy có quy mô sử dụng điện đủ lớn; thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư các loại hình khu công nghiệp/nhà máy cam kết tiêu thụ điện dài hạn cùng với chuỗi nhà máy điện và kho cảng LNG; kích cầu điện, kích thích sản xuất, kích thích tiêu dùng; tháo gỡ nút thắt liên quan đến cam kết huy động tổng sản lượng điện.
Cùng với đó, cần cập nhật, sửa đồi điều lệ và quy chế tài chính của các tập đoàn kinh tế Nhà nước nhằm bảo đảm các doanh nghiệp có đầy đủ cơ sơ pháp lý để cam kết và thế chấp với các chủ thể trong Hợp đồng mua bán LNG và mua bán điện. Đồng thời các tập đoàn kinh tế Nhà nước được quyền cam kết và thế chấp tài sản hay dòng tiền của tập đoàn trong các giao dịch pháp luật, kinh tế, thương mại.
Theo chuyên gia, cần có một Nghị quyết chuyên đề của Quốc hội để đảm bảo mục tiêu quy hoạch năng lượng và quy hoạch điện VIII, qua đó xây dựng cơ chế chính sách điện khí LNG nói riêng và năng lượng nói chung; xây dựng mô hình quản trị đầu tư xây dựng, vận hành, khai thác sử dụng hiệu quả và tối ưu điện khí LNG.
PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh - Chuyên gia kinh tế, Giảng viên Học viện Tài chính - cũng đề xuất hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế quản lý cho các dự án đầu tư điện khí LNG theo hình thức đầu tư thông thường (IPP) để tạo điều kiện thu xếp tài chính cho các dự án điện khí LNG quy mô hàng tỷ USD. Cần rà soát và chỉnh sửa các quy định về thủ tục, trình tự đầu tư ở các Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Môi trường, Luật Quy hoạch... để tạo điều kiện cho việc hoàn thiện và phát triển điện khí LNG.