Dăm ba con chữ một thời trận mạc, một thời bao cấp

2025-06-20 12:54:57 0 Bình luận
Là lính bộ binh ở chiến trường Trị-Thiên-Huế từ đầu năm 1965, nhưng “chiến tranh đưa đẩy”, tôi trở thành một người cầm bút chuyên nghiệp. Như người ta thường nói, phóng viên chiến trường phải “tay bút tay súng”, và hình như tôi “thuận cả hai tay” nên suốt ba cuộc chiến tranh giữ nước vừa qua, đã có một chút đóng góp. Suốt mấy chục năm trận mạc, suốt nhiều năm sống trong “bao cấp”, tôi cũng như nhiều phóng viên khác, trực tiếp chứng kiến biết bao con người vì nước quên thân, vì dân đổi mới, nhưng với một bài báo, chỉ xin kể vài ba mẫu chuyện đời thường với chút hy vọng người trẻ hôm nay biết thêm ông bà, cha mẹ họ đã sống thế nào…

1.

Tháng 12/1967, tôi theo Thành đội trưởng thành phố Huế Thân Trọng Một trinh sát những cứ điểm của quân Mỹ và quân Sài Gòn đóng ở vùng ven Cố đô để chuẩn bị cho chiến dịch sắp tới. Cùng đi với ông, ngoài trung đội trinh sát còn có một o giao liên vũ trang dẫn đường. Đến 9 giờ tối, chúng tôi mới qua được khu vực Bến Tuần ven sông Hương trong cảnh mưa phùn cuốn theo gió buốt. Bỗng từng tràng trung liên M60 quạt rát mặt. Trung đội trưởng trinh sát hy sinh ngay loạt đạn đầu. Trong ánh sáng ma quái của hỏa châu, tôi thấy o giao liên nhanh như con sóc lăn mấy vòng để tránh đạn rồi chồm lên người thủ trưởng Một. Lúc ấy, Thành đội trưởng đã dùng khẩu AK của trung đội trưởng trinh sát đều đặn ba phát một bắn trả quân địch. Không biết bị đè lên ngưởi làm khó tác xạ hay vì một lý do nào đó, ông vừa cố hất o giao liên ra vừa quát: “O là con gái con lứa mà dám nằm côi (trên) đàn ông, kỷ luật!”, nhưng hai chân o giao liên vẫn kẹp chặt hông thủ trưởng, ngực đè lên lưng ông, khẩu Carbin M2 vẫn nhắm bắn từng phát một. Dứt một điểm xạ, ông thét: “Lính Thân Trọng Một đây, có giỏi thì đừng bỏ chạy!”. Nghe đến “lính Thân Trọng Một”, bọn địch phục kích chuồn lẹ. Đã ngớt tiếng súng mà o giao liên chưa chịu rời lưng thủ trưởng, ông lại quát: “O có xuống không, về cứ, tôi kỷ luật!”.

 Trong đêm đen, không biết cô gái có đỏ mặt, nhưng tôi nghĩ, hành động của cô thật dũng cảm, dám nằm lên người thủ trưởng để vừa bảo vệ ông, vừa là “điểm tựa” đánh địch, dù biết Thân Trọng Một tính nóng như lửa.

Khi biết đụng phải “lính Thân Trọng Một”, đối phương bỏ chạy bởi tên ông đã là nỗi sợ của đối phương từ thời kháng Pháp. Thân Trọng Một tên thật là Thân Trọng Thoan, năm 1946 chưa tròn tuổi 20, Thoan đã tham gia Vệ quốc quân. Năm 1946, Huế vỡ mặt trận, Thoan bị thương khi đánh quân Pháp bám trụ ở khách sạn Morin, được cơ sở cách mạng cưu mang.

Sau khi vết thương lành hẳn, Thoan về quê nhà làng Dương Xuân Hạ, tỉnh Thừa Thiên (nay thuộc phường Thủy Xuân, thành phố Huế) tìm bạn bè cùng chí hướng lập một đội du kích. Thoan là người đầu tiên nên lấy biệt danh là Một, những người kế tiếp tham gia vào lực lượng là Hai, Ba, Bốn...

Khi đội du kích vừa đủ quân số, Thân Trọng Một dụ địch đuổi theo mình đến nơi đội viên phục kích trong những đống lá khô ven đường xông ra tiêu diệt bằng gậy, giáo mác, cướp súng tự trang bị. Khi chỉ huy một trung đội bộ đội địa phương, thấy đơn vị quá thiếu cái mặc, hay tin lính đồn An Lỗ vừa nhận được quân trang, Một tổ chức đột kích chiếm đồn giữa buổi trưa, bắt lính xếp hàng giữa sân rồi lệnh “Tất cả cởi hết quần áo ra”. Nghe tiếng Một, lính địch răm rắp làm theo.

Trong một trận đánh vào tháng 12/1950, Thân Trọng Một bị thương và sa vào tay giặc. Biết tiếng tăm và tài năng quân sự “có một không hai” của ông nên địch không giết mà tìm cách mua chuộc để ông huấn luyện cho một đội quân của chúng sao cho gan dạ, tinh nhuệ như “lính của Thân Trọng Một”. Tuy nhiên, ông càng huấn luyện thì quân lính của chúng lại bị thương, tử vong nhiều hơn.

Khi trốn thoát về chiến khu, Thân Trọng Một được phân công làm Phó Tham mưu trưởng Phân khu Trị -Thiên, chỉ huy nhiều trận đánh “xuất quỷ nhập thần”. Trong kháng chiến chống Mỹ, cái tên Thân Trọng Một vẫn làm cho đối phương lo ngại.

Việc Thân Trọng Một muốn “kỷ luật” o giao liên là vì làm “vướng víu” tay súng của ông!

Đánh giặc trăm trận, bị thương chục lần mà Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang Thân Trọng Một vẫn khỏe cho đến gần 80 tuổi. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở nội thành Huế.

2.

Báo Giải Phóng có bốn người “tà ru”, là Tổng biên tập Hai Khuynh, họa sĩ Dũng Tiến, phụ trách tư liệu Xuân Huy, phóng viên Phương Hà. Hai Khuynh “tà ru” từ năm 1967, ba người còn lại “tà ru” mới toanh, gần cuối mùa khô 1973.

“Tà ru” - tù ra mà được về làm phóng viên báo Giải Phóng như tôi quả là “ngoài sức tưởng tượng”(!) Số là sau khi được trao trả tù binh ở sân bay Thiện Ngôn, Bắc Tây Ninh, tôi viết một loạt bài về nhà tù của Mỹ và chính quyền Sài Gòn và lên án không lực của họ đánh phá những vùng do Mặt trận kiểm soát sau Hiệp định Paris 1973, cho ba cơ quan truyền thông chủ yếu thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Cục Miền Nam, cũng là viết cho thỏa ngòi bút sau mấy năm bị đối phương giam cầm, nên được Tổng biên tập Hai Khuynh kêu về làm phóng viên. Có lẽ đều là dân “tà ru”, lại viết khá, nên tôi được ông Hai “cưng”, cử xuống Vành đai Bình Đức vào cuối mùa mưa 1973.

Cấp trên đã liên lạc với đường dây giao liên vũ trang nên tôi được một cô gái tên Sáu đón ở bờ nam sông Vàm Cỏ Đông, thuộc địa phận Đức Huệ, tỉnh Long An. Dù đã quen với chiến trường Trị-Thiên-Huế vô cùng ác liệt, nhưng khi chuẩn bị băng Đồng Tháp Mười, tôi vẫn hồi hộp.

Đã hết một buổi chiều mà chiếc xuồng của chúng tôi chưa đi được bao xa do máy bay trinh sát L.19 của đối phương không ngừng quần thảo. Sáu phải neo xuồng giữa rừng tràm, cách tỉnh lỵ Kiến Tường (nay là thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An) một tầm chèo. Chưa tối hẳn mà muỗi đã kêu át cả tiếng gió xôn xao đồng nước. Sáu nhóm bếp giữa lòng xuồng, vừa nấu cơm vừa hun muỗi, rồi bẻ hai nhánh tràm buộc dây câu, bảo tôi lấy trứng kiến vàng trên ngọn tràm làm mồi. Sáu nói trống không: “Cơm chín là dư cá ăn”.

Tôi đã nghe những đồng chí ở Đồng bằng sông Cửu Long công tác tại R (chiến khu C, Bắc Tây Ninh) nói ở Đồng Tháp Mười “cá lền nước như bánh canh”, nhưng khi hai tay một lúc giật hai cần câu cho Sáu gỡ cá chốt, cá rô, cá lóc tôi mới tin họ không dóc tổ. Cơm vừa sôi, Sáu bảo tôi không câu nữa, đã thừa ăn, cứ rộng cá giữa đồng cho nó tươi!

Chiếc xuồng kẹp giữa hai cây tràm to bằng cột nhà rường mà vẫn bị sóng đánh nghiêng ngả, chúng tôi phải tựa lưng vào nhau mới ngồi vững. Sáu nói quê Sáu sát nách tỉnh lỵ Kiến Tường (nay là thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An), khi chưa làm giao liên Giải phóng, mùa nước nổi như hiện giờ là Sáu thích nhất, ở đâu cũng bơi được xuồng, ngồi đâu cũng câu được cá; có nước nổi, phù sa về, phèn được xả bớt, năm sau lúa trúng mùa, cây tràm lớn nhanh hơn, cây điên điển mới cho bông vàng hực, cây hẹ nước mới thơm tho nồi lẩu cá linh, cá rô mề.

Tối đó chúng tôi không đi được. Có thể Sáu biết đâu đó trên cung đường giao liên giữa Đồng Tháp Mười có địch phục kích. Thế là tôi được sống một đêm giữa rừng tràm chỉ có hai người. Trăng sáng vằng vặc bỗng dưng bị mây che, đồng hoang xao động những âm thanh đùng đục, tưng tức. Sáu giải thích đó là tiếng cá quẩy vì hoảng sợ bởi bóng mây bất ngờ làm tối mặt nước.

Càng khuya, mùi hương càng nồng nàn, không biết là hương tràm hay  hương nồng ngắn ngủi một nụ hôn dài…

Vất vả, hiểm nguy, nhưng sau một tuần, vừa đi xuồng, vừa lội bộ, Sáu đã đưa tôi tới được Ban chỉ huy Vành đai Bình Đức.

Đầu năm 1966, quân Mỹ xây căn cứ thủy bộ lớn nhất Đồng bằng sông Cửu Long, sát bờ bắc sông Tiền thuộc xã Bình Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho, đặt tên là Đồng Tâm. Căn cứ cấp sư đoàn này khống chế cả một vùng rộng lớn dọc sông Tiền, khống chế cả Đồng Tháp Mười. Vì thế Bộ Tư lệnh Quân khu 8 phải thành lập một lực lượng vũ trang gồm du kích 6 xã Bình Đức, Phước Thạnh, Long Hưng, Song Thuận, Vĩnh Kim, Kim Sơn, bổ sung thêm lính huyện đội, hình thành một vành đai bao vây căn cứ Đồng Tâm, mà khi tôi đến, quân dân ở đây đã trải qua 7 năm đánh địch và tránh địch. Tôi được các đội du kích cho theo phục kích đối phương, được bà con bảo bọc trong mấy tháng trời giữa lòng địch nên đã hoàn thành những bài báo sếp Hai Khuynh giao.

 Chiếc xuồng giữa xôn xao mùa nước nổi và tinh thần xã thân cho giang sơn thu về một cõi của lực lượng vũ trang và nhân dân Châu Thành đã vĩnh viễn neo vào ký ức tôi một thời chiến tranh làm phóng viên báo Giải Phóng...

3.

Ngày 8/5/1975, một bạn đồng nghiệp từ Rạch Giá lên Sài Gòn, thì thầm: “Tàu chiến của Pol Pot đổ bộ lên đảo Phú Quốc. May mà có hải quân không thì đồng bào nguy to”. Nếu như ở thời điểm khác thì chúng tôi rất quan tâm đến cái tin ấy, nhưng lúc đó, báo Giải Phóng mới từ R về, ra được ba số báo Sài Gòn Giải phóng, anh chị em phóng viên đang tràn ngập niềm vui nên không mấy để ý đến tính chất nghiêm trọng của nguồn tin mà bạn cho biết.

Một tuần sau, bạn tôi lại có việc lên Sài Gòn, bằng giọng nói không giữ ý nữa, thông báo ngày 10/5, Pol Pot đã cho quân đánh chiếm đảo Thổ Chu, đốt sạch các làng đánh cá, giết nhiều người và bắt đi hơn 500 ngư dân. Chúng tôi bàng hoàng trước cái tin khủng khiếp đó nhưng vẫn nghĩ có lẽ một bộ phận nào đó của quân địa phương Campuchia làm bậy. Thế nhưng cái tin đó vẫn ám ảnh, nhất là vào đêm khuya khi máy in báo đã chạy đều, chúng tôi quây quần bên ấm trà, nhớ lại sau Hiệp định Paris 1973, Khmer đỏ đã bắt cóc rồi đòi tiền chuộc và bắn lén không ít cán bộ, nhân viên công tác ở R, trong đó có mấy phóng viên băng qua vùng Mỏ Vẹt để xuống miền Tây. Vì thế, chúng tôi linh cảm rồi đây, quân Pol Pot còn tiếp tục đánh phá và tàn sát đồng bào ta với quy mô ngày càng lớn và man rợ hơn. Chúng tôi hiểu việc chưa được đưa tin trên các phương tiện truyền thông quốc gia là biểu hiện sự kiên nhẫn của Chính phủ ta muốn qua con đường đàm phán buộc Phnom Penh ngừng ngay hành động lấn chiếm đất đai của Việt Nam, nhưng chúng vẫn ngày càng lấn tới.

Sự kiên nhẫn của ta đã quá giới hạn. Các cơ quan truyền thông lại được cử phóng viên ra biên giới, trong đó báo Đại đoàn kết có một nhóm xuống huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang - nơi mà 3.157 người dân ở xã Ba Chúc vừa bị quân Pol Pot tàn sát. Hơn một tuần, chúng tôi theo sát các đơn vị bộ đội địa phương đánh tan quân Pol Pot lấn chiếm biên giới. Đêm cuối cùng trước khi trở lại Tòa soạn, chúng tôi được một gia đình dưới đồi Tức Dụp đãi cháo đầu bò và rượu thốt nốt. Trong nhóm có tôi và M.Đ từng nhiều năm ở chiến trường, thay nhau canh cho anh em ngủ, đề phòng lính Khmer đỏ mò qua giết hại đồng bào. Khoảng 2 giờ sáng, đến phiên M.Đ ngủ. Nằm xuống đã nghe anh ngáy, lúc đầu rền rền giống tiếng xe tải đang nổ máy, rồi ầm ào như mô tô nẹt ga, rồi lại liên hồi chẳng khác tiểu liên kéo nửa băng đạn. Tiếng ngáy của M.Đ làm căn nhà tranh rung rinh, làm chó trong nhà sửa, chó trong xóm sủa, chó những xóm khác, làng khác, làng khác nữa đua nhau sủa, sủa “dây chuyền”. Thế là cả một dải biên giới báo động có quân Pol Pot! Những anh bộ đội, những cô du kích vừa được thay phiên phải tức tốc lao ra tuyến phòng thủ, đồng bào phải nhớn nhác chạy tìm chỗ nấp!

Sáng hôm sau, tôi phải thay mặt nhóm phóng viên thú thật nguyên nhân báo động là do tiếng ngáy, xin lỗi Ban chỉ huy Huyện đội Tri Tôn, xin lỗi bà con.

Sau cái đêm giữa tháng 4/1978 ấy, tôi lại nhiều lần ra biên giới, sang chiến trường Campuchia, lên tận dãy núi Dangrek, thông thuộc đất nước bạn như đất nước mình, chứng kiến những mồ chôn tập thể trong bốn năm bè lũ Pol Pot giết hại hơn 2 triệu đồng bào của chính họ, chứng kiến người dân Campuchia coi bộ đội Việt Nam là “Quân nhà Phật” đã giúp họ chặn đứng họa diệt chủng và lao động khổ sai trên những “cánh đồng chết” trong chính sách điên rồ hiện đại hóa Campuchia bằng cách xây dựng một xã hội không tiền tệ, không trường học, không tôn giáo, không sở hữu tư nhân. Tôi nghĩ, đó là di chứng từ “đại cách mạng văn hóa” bên Trung Quốc truyền qua.

4.

Đầu tháng 2/1979, tôi tháp tùng Tổng biên tập Lê Điền đi viết về Cà Mau. Hai thầy trò lang thang qua các huyện Thới Bình, Trần Văn Thời, Cái Nước, Năm Căn rồi dừng ở Đất Mũi - huyện Ngọc Hiển. Trưa ngày 17/2, Huyện ủy Ngọc Hiển mời cơm Tổng biên tập Lê Điền thì được điện từ Hà Nội báo, sáng sớm nay, quân Trung Quốc đã đánh sang 6 tỉnh biên giới phía Bắc. Bữa tiệc phải bỏ dỡ vì tâm trạng ai cũng nặng nề âu lo. Sếp Lê Điền đăm chiêu hút thuốc, vẫy tôi đến, bảo, cậu phải ra Hà Nội, xin giấy giới thiệu lên biên giới ngay. Ông động viên tôi, báo Đại đoàn kết chỉ có cậu quen chiến trường nhất, sức khỏe còn tốt, cứ đi, chắc chắn viết được nhiều. Tôi tự hào được sếp tin cậy, nhưng vẫn băn khoăn con trai còn quá bé, bỏ mẹ con lại Sài Gòn không đành. Nhưng mệnh lệnh là mệnh lệnh, hai ba chặng xe đò, sáng sớm hôm sau tôi về đến nhà, chỉ kịp lấy chiếc ba lô con cóc đựng tăng võng, bi đông, áo mưa, súng K54 từ R mang về để lưu giữ kỷ niệm một thời trận mạc, tạm biệt vợ con, ra sân bay Tân Sơn Nhất trình bày việc phải lên biên giới ngay, nên được ưu tiên mua vé đi Nội Bài.

Gần hai tháng đi từ Lạng Sơn lên Hà Giang, quay lại Tiên Yên, Cao Ba Lanh của tỉnh Quảng Ninh, tôi viết được khá nhiều chuyện về chiến sĩ, sĩ quan, thanh niên xung phong trên tuyến đầu bảo vệ biên cương, về tội ác của giặc Tàu đối với đồng bào ta. Giặc Mỹ thì dùng bom pháo hủy diệt, giặc Tàu thì thâm hiểm đến mức, ở bất cứ nơi đâu lấn chiếm được, chúng đều ném từng lạng bộc phá phá hủy từ chuồng heo đến cái hố xí, phạt ngang từng cây chuối rồi dùng túi ni lông phủ kín gốc, không cho sống sót.

Ở Cao Ba Lanh, tôi được tiếp xúc với một đại đội thanh niên xung phong, toàn những cô gái trẻ của Đồng bằng sông Hồng. Không như sự mạnh bạo có khi đến táo tợn của những cô gái thanh niên xung phong Bắc miền Trung thời kháng Mỹ, những cô gái sửa đường, tiếp tế quân nhu cho bộ đội đánh Tàu luôn tế nhị và ý tứ trước người lạ, nhất là khi được hỏi về thành tích phục vụ chiến trường, nhưng họ đều giống nhau là vì tình yêu Tổ quốc mà không quản thân gái dặm trường.

Chính trị viên đại đội thanh niên xung phong giới thiệu tôi viết về trung đội trưởng Nguyễn Thị Hạnh. Hạnh không nói nhiều về mình mà kể những công việc thường nhật của đồng đội, như hai ba giờ sáng, có lệnh là ào dậy vác đạn lên chốt, mưa lớn, suối chảy xiết vẫn bám dây mây cõng bột mì, gùi muối cho bộ đội, mưa phùn, rét căm căm vẫn bấm từng bước chân trên những con dốc trơn trượt tải nước lên tuyến trước, dù khẩu phần ăn của mọi người chủ yếu là “nắp hầm” (bột mì tẩm nước nhồi thành bánh tròn nướng trên chảo quân dụng vì không có dầu hay mỡ lợn để chiên).

Bài báo viết về Hạnh tôi gửi cho gia đình em ở vùng quan họ Kinh Bắc, bên bờ sông Cầu. Từ đó đến nay, đã 44 năm, gia đình Hạnh vẫn coi tôi là người không họ hàng mà thân thiết như những liền anh liền chị…

5.

Cuối những năm 1970, đầu những năm 1980, tôi và nhà báo Trần Thanh Phương là “cặp đôi ăn ý” thường đi viết về Đồng bằng sông Cửu Long. Anh Thanh Phương là dân Cà Mau tập kết ra Bắc khi mới 13 tuổi, học xong đại học được phân công nhận công tác ở báo Nhân Dân, sau ngày đất nước thống nhất chuyển về báo Giải Phóng (năm 1977, báo Cứu Quốc và báo Giải Phóng sáp nhập thành báo Đại đoàn kết), tôi có mấy năm tác nghiệp ở một số tỉnh Tây Nam bộ trong chiến tranh nên khá am hiểu vùng đất Chín Rồng. Thường một đợt đi viết của hai anh em tôi ở hạ nguồn Mekong là trên dưới nửa tháng, hết tỉnh này sang tỉnh khác. Mỗi đợt như thế, nếu tấp vô hội văn học - nghệ thuật bất cứ tỉnh nào thì phải “lai rai” một hai ngày, kéo sang đêm, chưa say, anh chị em văn nghệ chưa cho đi. Vì thế mà có đợt từ Long An xuống Cà Mau phải mất cả tuần! Hồi ấy rượu đế miền Tây ngon lắm chứ không nhạt nhếch như bây giờ, mồi thì quăng chài, quăng câu xuống rạch, xuống kinh là tha hồ tôm càng xanh, các lóc, cá rô… Ngó sen, bông súng, bông điên điển, hẹ nước, bồn bồn, đọt choại, rau dệu, rau đắng, rau trai, năn bộp thì dưới ao, sau hè cơ quan đã có, hoặc sang nhà dân xin, nên những cuộc nhậu không mấy khi “hao tổn” đồng lương quá ít ỏi.

 Sài Gòn, đầu mùa mưa 2025  ẢNH  Phóng viên Phương Hà trên một điểm chốt ở Hà Giang trong  chiến tranh chống giặc Tàu, 1979 

 Phóng viên Phương Hà trên một điểm chốt ở Hà Giang trong  chiến tranh chống giặc Tàu, 1979 

Sướng nữa là nếu không đi xe con của toà soạn, nhảy xe đò xuống một tỉnh nào đó rồi vào làm việc với uỷ ban hay tỉnh uỷ là mấy hôm sau văn phòng cho xe công vụ đưa xuống bất cứ địa phương nào anh em chúng tôi đề nghị. Vì thế mà thời đó, chúng tôi quen thân với hầu hết anh chị em chánh - phó văn phòng uỷ ban, tỉnh uỷ, chánh - phó văn phòng uỷ ban, huyện uỷ các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, ngoài tình nghĩa còn để được… ưu tiên! Có thể hồi ấy cơ quan báo chí rất ít, phóng viên không có mấy, lại say nghề và đạo đức nghề nghiệp “đầy mình” nên được cưng.

Thường thì sau khi hòm hòm bài và ảnh, chặng cuối của hai anh em tôi là thị xã Long Xuyên, tỉnh lỵ của tỉnh An Giang vì sản lượng lúa của tỉnh này lúc ấy dẫn đầu cả nước và manh nha du lịch vùng Bảy Núi. Đặc biệt, Chánh văn phòng Tỉnh uỷ An Giang là Hai Vũ - nguyên phóng viên báo Giải Phóng, bạn vong niên của tôi, rất nhiệt tình giúp đỡ anh chị em từng là đồng nghiệp trong những năm chiến tranh vệ quốc vô cùng gian khổ. Là chỗ trên cả mức thân tình, nên có một lần, sau bữa ăn tối tại nhà Hai Vũ, khi ngồi trên xe để về nhà khách tỉnh uỷ, anh bảo: “Hôm nay tao cho hai đứa bay ngủ trong phòng đặc biệt”.

Phòng ngủ đặc biệt ấy gần phòng làm việc của Bí thư Tỉnh uỷ An Giang Lê Văn Nhung, rộng khoảng 20 mét vuông, có tivi, giường đệm, máy điều hoà nhiệt độ, tất cả đều sản xuất trước năm 1975. 

Anh Hai kêu cô nhân viên văn phòng trực đêm pha trà rồi hỏi hai anh em tôi: “Tụi bay biết phòng này của ai không?”. Tôi mau mắn: “Là phòng nghỉ trưa của Bí thư Tỉnh uỷ”. Hai Vũ bảo: “Trật lất. Của Tổng Bí thư Lê Duẩn”.

Tôi và Thanh Phương ngạc nhiên không chỉ vì trang thiết bị trong căn phòng khá cũ kĩ mà còn ngạc nhiên vì “vinh dự” được ngủ trên giường Tổng Bí thư.

Biết Hai Vũ bố trí cho phóng viên chỗ ngủ như vậy là sai nguyên tắc, nhưng chắc vì tình thân và tin tưởng hai anh em tôi “trên cả mức tốt” mà anh “phá lệ”.

Đêm ấy, Thanh Phương và tôi chuyện trò mãi về mối tình thuỷ chung từ năm 1950 của ông Ba Duẩn và bà Bảy Vân.

Đêm ấy, Thanh Phương và tôi chuyện trò mãi về tình vợ chồng son sắt dù rất nhiều trắc trở của ông Lê Duẩn và bà Nguyễn Thuỵ Nga (khi trở lại chiến trường năm 1964, bà mang tên Nguyễn Thị Vân - Bảy Vân).

Hồi đó, vì bị tù đày ở Côn Đảo rồi vì nhiệm vụ cách mạng mà ông Lê Duẩn đã xa vợ con ở Quảng Trị 20 năm không tin tức. Tổ chức, nhất là Hội Phụ nữ cứu quốc giục ông Ba lấy vợ để có người chăm sóc nhưng ông từ chối. Năm 1948, khi đang là Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ, ông gặp bà Thuỵ Nga lúc ấy là Tỉnh uỷ viên, Đoàn trưởng Phụ nữ cứu quốc tỉnh Cần Thơ trong một hội nghị ở bưng biền, hai người nảy sinh tình cảm, lại được các đồng chí trong Xứ uỷ Nam Bộ, nhất là ông Lê Đức Thọ tác hợp, ngày 29/5/1950, họ thành vợ thành chồng.

Năm 1954, ông Lê Duẩn xuống tàu cùng vợ và hai con tập kết ra miền Bắc, nhưng đó là cách che mắt tình báo đối phương, nên khi tàu sắp nhổ neo, ông bí mật xuống một chiếc xuồng trở lại Cà Mau lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ hai ở miền Nam.

Ở miền Bắc, đầu năm 1957, người của Hội Liên hiệp Phụ nữ đến gặp bà Thuỵ Nga, nói, đại ý: Luật Hôn nhân và Gia đình sắp ban hành (nhưng mãi đến ngày 13/1/1960 mới có luật này) ghi rõ gia đình phải một vợ một chồng. Trước kia vì sự nghiệp chung mà chị lấy anh Ba. Nay cũng vì sự nghiệp chung mà chị nên chủ động ly dị để anh Ba làm tròn nhiệm vụ.

Bà Thuỵ Nga sững sờ rồi dần bình tĩnh, trả lời, đại ý: Trước kia chúng tôi lấy nhau cũng hai bên bàn bạc đồng ý, tổ chức đồng ý, bây giờ muốn bỏ nhau cũng phải có ý kiến hai bên. Việc này phải chờ anh Ba.

Cuối tháng 4/1957, ông Lê Duẩn ra đến Hà Nội theo yêu cầu của Cụ Hồ, sau khi ổn định công việc, đã đến gặp Hội Liên hiệp Phụ nữ nói rõ hoàn cảnh của vợ chồng mình nhưng lãnh đạo Hội vẫn yêu cầu ly dị.

Để chồng làm tròn trọng trách Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, bà Thuỵ Nga đã sang học tập ở Trung Quốc trong lúc mang bầu đứa con thứ ba. Học xong, về nước không bao lâu, năm 1964, bà nén nỗi đau rời chồng và ba con thơ dại, trở lại chiến trường Tây Nam Bộ trên con tàu không số để ông Lê Duẩn bớt đi gánh nặng, bớt đi sự giằng xé với người vợ trước mà cha mạ đã cưới cho ông khi ông ngoài 20 tuổi. Bà thương ông không thể rời bỏ hai người phụ nữ: Một người vì tình yêu, một người vì ân tình hàng chục năm nuôi dưỡng cha mẹ chồng báo đáp một đời không hết. Bà hiểu cuộc hôn nhân của Tổng Bí thư Lê Duẩn là cuộc hôn nhân nhiều đau khổ cho cả ba người. 

Đất nước thống nhất nhưng bà Bảy Vân không có ngày đoàn tụ bởi vợ chồng bà vẫn phải sống cảnh người Nam kẻ Bắc…

Chiều hôm qua, bà Bảy Vân đã tiếp hai anh em tôi với tư cách là Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ An Giang. Bà dung dị và hóm hỉnh, lâu lâu lại cười khúc khích khi trả lời phóng viên về cách đảng bộ và nhân dân An Giang vượt qua khó khăn để hàn gắn vết thương chiến tranh, trong đó có việc hoà giải, hoà hợp giữa bên chiến thắng và bên bại trận…

 Chúng tôi nghĩ, Tỉnh uỷ An Giang thật là chu đáo khi chuẩn bị căn phòng này cho Tổng Bí thư Lê Duẩn nghỉ ngơi mỗi lần về làm việc với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, và thật là tâm lý khi chuẩn bị căn phòng này vì bà Bảy Vân đang là công dân của thị xã Long Xuyên.

Có lẽ Tỉnh uỷ An Giang chuẩn bị căn phòng này cho Tổng Bí thư nghỉ ngơi mỗi lần về làm việc với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, và cũng vì lúc này bà Bảy Vân đang làm Trưởng Ban Tuyên huấn tỉnh An Giang.

6.

Những năm 1976 - 1984, có chủ trương cấm triệt để tự do lưu thông hàng hoá để Nhà nước quản lý, phân phối, dân gian gọi là “ngăn sông cấm chợ”. Đi bằng xe con ít khi bị bắt dừng kiểm tra, nhưng đi xe đò thì “khốn khổ”, bởi vào thành phố Hồ Chí Minh có ba trạm kiểm soát khét tiếng, từ miền Tây lên là trạm Tân Hương trên lộ 4 (bây giờ là quốc lộ 1A), huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, ở miền Trung vào là trạm 2 trên xa lộ Đại Hàn (bây giờ là đại lộ Võ Nguyên Giáp), ở miền Đông xuống là trạm Suối Sâu trên quốc lộ 22, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Với danh nghĩa chống buôn lậu, quản lý thị trường là những “ông trời con” lục soát, tịch thu từ lon gạo, bịch đường táng, con cá, con cua đến mét vải, túm trái cây của dân.

Hồi đó, anh chị em phóng viên đi công tác các tỉnh thường được các cơ quan biếu khi thì cân tôm khô, khi thì cân đậu phụng, lúc thì vài ba ký gạo… Khi qua các trạm ấy, hầu hết bị tịch thu vì cho là hàng lậu, năn nỉ ỉ ôi rằng đây là quà của tỉnh A, của huyện B biếu đều không được tha.

Có lần nhóm phóng viên báo Đại đoàn kết đi viết ở tỉnh mấy tỉnh miền Tây, dù chúng tôi đi xe cơ quan, đã bị trạm Tân Hương bắt dừng lại kiểm tra. Khi thấy cốp xe có 30 kilôgam gạo, gã trạm trưởng mừng ra mặt vì bắt được vụ buôn lậu to. Chúng tôi trình bày đây là quà của Văn phòng Tỉnh uỷ Long An cho, nếu tịch thu, chúng tôi sẽ méc ông Chín Cần (Nguyễn Văn Chính). Gã trạm trưởng vênh váo: “Méc Đỗ Mười, Đỗ Mười Một tôi cũng không sợ”.

Không có điện thoại để gọi về Văn phòng Tỉnh uỷ Long An, chúng tôi vừa tức, vừa buồn, bàn nhau sau mấy ngày công tác sẽ về thị xã Tân An, (cách Tân Hương khoảng 10 kilômét) trình bày việc “mất gạo”. Nghe chúng tôi “kể khổ”, Chánh văn phòng Tỉnh uỷ Long An bảo các anh cứ về thành phố, ngày mai sẽ nhận được gạo.

Không biết Văn phòng Tỉnh uỷ giải quyết thế nào nhưng chiều hôm sau, chính gã trạm trưởng chở 30 kilôgam gạo lên Sài Gòn trao cho chúng tôi với lời xin lỗi.

Sau này tôi được biết, Văn phòng Tỉnh uỷ báo cáo chuyện ấy với Bí thư Chín Cần, ông trầm ngâm một hồi rồi nói, đại ý, cái trạm kiểm soát ấy làm đúng theo chủ trương sai. Phải sớm bỏ ngăn sông cấm chợ. 

 Ông Chín Cần làm bí thư Tỉnh uỷ Long An từ tháng 4/1977 đến năm 1984. Ông là nhà lãnh đạo đầu tiên chủ trương “bù giá vào lương”, mở đầu chủ trương xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp. Chuyện thí điểm bù giá vào lương “khá vui”, bởi nó được bắt đầu với cục xà bông: Tiền chi mua xà bông theo tiêu chuẩn bao cấp được tính lại, bù đủ vào lương, còn xà bông được bán tự do, không phân phối nữa, như vậy tiền lương cán bộ cũng tăng tương ứng. Thành công của mặt hàng xà bông giúp Long An chuyển sang một số mặt hàng bao cấp khác là thịt, rồi gạo... Toàn bộ số hiện vật bao cấp đều được quy ra tiền theo mức giá thị trường (chẳng hạn thịt 3 đồng giá bao cấp bằng 300 đồng theo giá thị trường), được đưa vào lương. 

Từ chính cách “xé rào” của Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh, như tự mua lương thực về bán cho dân theo giá thị trường, mở rộng quyền chủ động cho các cơ sở sản xuất khai thác nguyên liệu, vật liệu thay vì chờ phân phối, được xây dựng kế hoạch liên kết, hợp tác với các tỉnh thay vì chỉ được làm kế hoạch do Nhà nước cân đối, được thực hiện chính sách ba lợi ích, xây dựng lương khoán, trả lương theo sản phẩm…, cùng với chủ trương “bù giá vào lương” của Tỉnh uỷ Long An mà Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, Khoá V (6/1985) đã quyết định xoá bỏ hoàn toàn cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sản xuất, kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh tế.

Nhờ thế mà các trạm ngăn sông cấm chợ cát cứ từng vùng bị giải tán, anh em phóng viên chúng tôi tác nghiệp ở các tỉnh có thêm nhiệm vụ mua tôm khô, cá khô, đậu phụng và một số thực phẩm ở Sài Gòn không có nhiều, giá lại thấp về cho toà soạn chia nhau cải thiện bữa ăn vẫn còn thiếu thốn cho đến nửa cuối những năm 1990.

Tạp chí điện tử Hoà Nhập, cơ quan ngôn luận của Hiệp hội Doanh nghiệp của Thương binh và NKT Việt Nam, liên tục cập nhật thông tin liên quan về lĩnh vực kinh doanh của Thương binh và Người khuyết tật như: Đầu tư, kinh doanh, thương mại, dịch vụ, bất động sản, sức khỏe. Ngoài ra, Tạp chí cũng xin giới thiệu tới độc giả những bài viết về chính sách cho người có công, tấm gương thương binh, người khuyết tật vượt khó, doanh nhân thương binh, người khuyết tật tiêu biểu, doanh nghiệp của thương binhngười khuyết tật. Kính mời độc giả đón đọc. Mọi ý kiến đóng góp và chia sẻ xin liên hệ qua email tapchihoanhap@gmail.com.

Ý kiến độc giả

0

Không gian lớn – Tầm nhìn lớn: Xu hướng sống đẳng cấp tại Vinhomes Wonder City

Từ nhu cầu thực tế đến chiến lược đầu tư dài hạn, sản phẩm diện tích lớn đang trở thành tâm điểm tại các đại đô thị. Tại Vinhomes Wonder City, xu hướng sở hữu những căn nhà rộng rãi, thiết kế cá nhân hóa tích hợp tiện ích sống – làm việc – nghỉ dưỡng đang ghi nhận sức hút mạnh mẽ.
2025-06-20 18:23:54

Trả đời lính về cho nhà binh cầm cây bút làm cột mốc chủ quyền trên đồng văn ruộng báo

Năm mười tám tuổi Nguyễn Vũ Quỳnh bước vào giảng đường được một năm thì nhận lệnh tổng động viên. Tuổi thanh xuân của Nguyễn Vũ Quỳnh khoác chiếc áo chiến binh với tâm thế của một thế hệ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, bằng nhiệt huyết của tuổi đôi mươi.
2025-06-20 16:34:58

Thúc đẩy truyền thông thời đại số -Tọa đàm ý nghĩa của HNM TP. Hà Nội nhân kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam

Sáng ngày 20 /65, tại trụ sở Hội Người mù thành phố Hà Nội (số 56 Tô Hiệu- Hà Đông), Hội Người mù Thành phố đã tổ chức buổi tọa đàm với chủ đề “Thúc đẩy công tác truyền thông trong kỷ nguyên số”. Đây là hoạt động có ý nghĩa thiết thực nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2025), đồng thời là dịp để tôn vinh những đóng góp của đội ngũ cộng tác viên truyền thông trong hệ thống hội.
2025-06-20 15:14:53

Tôi không có tài sản gì nhiều, chỉ có những cuốn sách

Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, là một vị tướng trận mạc – từng trực tiếp chỉ huy chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị – nhưng đồng thời cũng là một học giả, một cây viết cần mẫn với hàng chục đầu sách giá trị. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, phóng viên đã có cuộc trò chuyện sâu sắc với ông tại văn phòng làm việc, nơi ông vẫn đọc, viết và tiếp khách đều đặn mỗi ngày.
2025-06-20 13:45:00

Dăm ba con chữ một thời trận mạc, một thời bao cấp

Là lính bộ binh ở chiến trường Trị-Thiên-Huế từ đầu năm 1965, nhưng “chiến tranh đưa đẩy”, tôi trở thành một người cầm bút chuyên nghiệp. Như người ta thường nói, phóng viên chiến trường phải “tay bút tay súng”, và hình như tôi “thuận cả hai tay” nên suốt ba cuộc chiến tranh giữ nước vừa qua, đã có một chút đóng góp. Suốt mấy chục năm trận mạc, suốt nhiều năm sống trong “bao cấp”, tôi cũng như nhiều phóng viên khác, trực tiếp chứng kiến biết bao con người vì nước quên thân, vì dân đổi mới, nhưng với một bài báo, chỉ xin kể vài ba mẫu chuyện đời thường với chút hy vọng người trẻ hôm nay biết thêm ông bà, cha mẹ họ đã sống thế nào…
2025-06-20 12:54:57

Hiệp hội VAIDE tổ chức Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025 - 2030

Chiều 19/6/2025, tại Hà Nội, Hiệp hội Doanh nghiệp của Thương binh và Người khuyết tật Việt Nam long trọng tổ chức Đại hội Chi bộ Hiệp hội lần thứ V, nhiệm kỳ 2025 - 2030
2025-06-20 12:28:26
Đang tải...