An sinh xã hội là một hệ thống tổng hợp nhiều chế độ chính sách nhằm bảo vệ mọi thành viên trong xã hội trước những rủi ro, đảm bảo cuộc sống của họ trong những điều kiện bất thường. Đây là sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho các cá nhân, gia đình và cộng đồng trong các trường hợp người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động, việc làm; cho người già cô đơn; trẻ em mồ côi; người tàn tật; những người dễ bị tổn thương trong xã hội; người bị ảnh hưởng bởi thiên tai;...
Chính sách bảo đảm an sinh xã hội bao gồm hệ thống các chính sách can thiệp của Nhà nước (bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội...) và sự hỗ trợ của tổ chức hay tư nhân (các chế độ không theo luật định) nhằm bảo đảm quyền con người, giảm mức độ nghèo đói và tổn thương, nâng cao năng lực tự bảo vệ của người dân và cộng đồng trước những rủi ro hay nguy cơ giảm hoặc mất thu nhập, bảo đảm ổn định, phát triển và công bằng xã hội.
Tuy nhiên, không có một bộ khung quy định cứng nào về các chính sách an sinh xã hội. Mỗi quốc gia tự áp dụng và điều chỉnh linh hoạt các chính sách phù hợp với sự phát triển của quốc gia và ngân sách nhà nước. Điều này tạo ra khoảng cách phát triển an sinh xã hội giữa các nhóm quốc gia chênh lệch trình độ phát triển, dẫn đến tốc độ phổ biến chính sách an sinh xã hội trên toàn thế giới chậm lại.
Năm 2023 là năm đầu tiên hơn một nửa dân số thế giới được hưởng ít nhất một loại an sinh xã hội. Tuy nhiên, nếu tiếp tục theo đà phát triển này, phải đến năm 2073, các chính sách an sinh xã hội mới phủ sóng được 100% dân số thế giới. Tổ chức Lao động Thế giới đánh giá tốc độ này là quá chậm.
Tại Việt Nam, tỷ trọng chi ngân sách cho an sinh xã hội đã tăng từ 2,85% GDP năm 2005 lên 4,14% GDP năm 2010, đến năm 2011 tăng lên 4,67% GDP, năm 2021 tăng lên khoảng 6,7% GDP và năm 2023 tăng lên khoảng 7% GDP. Đây là một tiến trình chậm rãi nhưng ổn định. Tuy nhiên, các xu hướng lớn như biến đổi khí hậu, xu hướng nhân khẩu học và phát triển công nghệ đang mang đến những thách thức mới cho chính phủ trong bảo đảm an sinh xã hội.
Ở Việt Nam, cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội gồm 5 trụ cột: 1) Bảo hiểm xã hội; 2) Bảo hiểm y tế; 3) Bảo hiểm thất nghiệp; 4) Cứu trợ xã hội; 5) Trợ giúp và ưu đãi xã hội.
Thành công trong công tác an sinh xã hội ở Việt Nam chủ yếu xoay quanh việc phủ sóng bảo hiểm y tế đến toàn dân, các nỗ lực xóa đói giảm nghèo và các chính sách đền ơn đáp nghĩa anh hùng liệt sĩ của nhà nước ta.

Các vấn đề còn tồn tại bao gồm: tỷ lệ bảo hiểm xã hội còn thấp do thị trường lao động phi chính thức còn lớn; nhà nước tăng gánh nặng chi trả trợ cấp cho nhóm người cao tuổi do tốc độ già hóa dân số tăng nhanh trong điều kiện thu nhập trung bình thấp; bên cạnh đó vẫn có nhiều người không tiếp cận được các chương trình bảo trợ xã hội do thiếu thông tin;...
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây biến đổi khí hậu đang nổi lên là một thách thức lớn và Việt Nam là một trong những nước bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Tác động của biến đổi khí hậu đến lao động và xã hội
Biến đổi khí hậu có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế và sinh kế của người dân, đặc biệt là người nghèo và các đối tượng dễ bị tổn thương.
Thời tiết thay đổi khắc nghiệt khiến người lao động, đặc biệt là người trong ngành nông nghiệp, đánh bắt thủy hải sản hay các ngành phải phụ thuộc vào hệ sinh thái, chịu ảnh hưởng nặng nề. Điều kiện sản xuất của họ thay đổi khiến sản phẩm làm ra kém chất lượng và mất mùa. Người dân mất đi sinh kế của mình và phải di chuyển lao động sang các khu vực khác. Việc tăng lao động ở các thành phố lớn, hay trong các xí nghiệp công nghiệp ngược lại sẽ tiếp tục làm gia tăng tình trạng ô nhiễm, phát thải khí nhà kính, làm biến đổi khí hậu. Những điều này đặc biệt ảnh hưởng tới nhóm người nghèo trong xã hội.
Biến đổi khí hậu làm gia tăng thiên tai, thảm họa, bão, lũ, động đất, sóng thần,... Nó đặt ra vấn đề lớn đối với công tác cứu trợ xã hội do gia tăng số lượng phải cứu trợ trong cả ngắn hạn và dài hạn. Trước đây, cứu trợ xã hội thường dành cho những nhóm yếu thế trong xã hội như người tàn tật, người già, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và nhóm những người bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Khi số lượng nhóm sau tăng lên do các hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng, số lượng người cần cứu trợ cũng gia tăng. Trong ngắn hạn là cứu trợ lương thực, nhu yếu phẩm. Trong dài hạn là cứu trợ xây nhà, xây trường học, cứu trợ dành cho các gia đình mất đi lao động chính trong thiên tai,...

Tóm lại, biến đổi khí hậu tác động đến mọi mặt của cuộc sống, đến mọi phương diện của nền kinh tế và hoạt động xã hội, trong đó, chịu tác động cuối cùng và nhiều nhất là nhóm người nghèo. Bên cạnh đó, sự gia tăng của thiên tai cũng khiến số lượng nạn nhân tăng vọt ở tất cả các tầng lớp xã hội, không chỉ riêng nhóm thu nhập thấp. Những thiệt hại trực tiếp do thiên tai ảnh hưởng đến hạ tầng, tài sản hay sản xuất chỉ là những tác động dẫn xuất. Tổn thương sâu sắc nhất là ảnh hưởng đến sinh kế, thu nhập và đời sống của người dân.
Do đó, chúng ta cần có nhận thức đầy đủ, toàn diện để đánh giá được các tác động và có giải pháp đảm bảo an sinh xã hội trong bối cảnh biến đổi khí hậu như hiện nay.
“Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến tất cả chúng ta và là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với công bằng xã hội hiện nay”, theo GS. TS Phạm Hồng Chương, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (Hà Nội).
Siêu bão Yagi và ảnh hưởng xã hội ở Việt Nam
Vào ngày 7 tháng 9 năm 2024, Siêu bão Yagi, cơn bão mạnh nhất tấn công Việt Nam trong 70 năm qua, đã đổ bộ vào các tỉnh phía Bắc, ảnh hưởng đến hàng triệu gia đình. Thảm họa này đã làm 323 người chết, 22 người mất tích, 1.978 người bị thương, thiệt hại vật chất hơn 81.700 tỷ đồng. Thôn Làng Nủ, xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai bị lũ quét san phẳng. Cơn bão cũng đã gây thiệt hại lớn cho cơ sở hạ tầng giao thông, điện lực, cấp nước và viễn thông, những yếu tố quan trọng cho hoạt động thương mại và công nghiệp. Nhiều tuyến đường bị vùi lấp, nhà dân sụp đổ, phần lớn diện tích hoa màu của bà con hư hỏng sạch, nhiều thuyền bè, lồng cá của ngư dân bị đánh chìm hoặc trôi dạt mất tích.
Điều này đã dẫn đến sự gián đoạn sản xuất trong nhiều ngành. Ngành nông nghiệp chịu tổn thất nặng nề, 286.647 ha lúa bị ngập úng, thiệt hại; 63.352 ha hoa màu bị ngập úng, thiệt hại; 11.835 lồng bè nuôi trồng thuỷ sản bị hư hỏng, cuốn trôi; 44.550 con gia súc, 5.761.454 con gia cầm bị chết, ảnh hưởng đến an ninh lương thực và sinh kế của người dân.

Các tác động của bão đã làm giảm thu thập, gia tăng nghèo đa chiều, đe dọa an ninh kinh tế xã hội và làm ảnh hưởng đến tiến trình xóa đói giảm nghèo.
Người dân mất nhà, mất không gian sinh sống khi có những khu vực cả làng xã bị phá hủy nặng nề, mất sinh kế sinh nhai. Nhiều gia đình mất đi lao động chính. Mất sinh kế kết hợp với tình trạng mất nhà cửa hoặc di dời đã khiến khoảng 365.000 gia đình rơi vào tình trạng cần sự hỗ trợ tiền mặt để trang trải cho các nhu cầu sống cơ bản. Cơn bão hoành hành ở khu vực miền núi phía Bắc có các cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống và có tỷ lệ nghèo đói cao đã làm tình hình của các cộng đồng dễ bị tổn thương trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.
Giải pháp
Khắc phục hậu quả sau cơn bão, chính phủ đã tập trung vào các giải pháp cung cấp sinh kế cho người dân. Tại các địa phương, các chính sách hỗ trợ về tài chính, giống cây trồng, vật nuôi và hướng dẫn khôi phục sản xuất sau lũ đã nhanh chóng được triển khai, giúp người dân có điều kiện tái thiết lại cuộc sống và sản xuất. Đặc biệt, các chính sách hỗ trợ về giáo dục, y tế và an sinh xã hội đã được áp dụng để đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau sau thiên tai.
Xem xét các biện pháp dài hạn bảo đảm an sinh xã hội trong bối cảnh phải ứng phó với tình hình biến đổi khí hậu nói chung, giải pháp cho vấn đề này lại quay lại câu chuyện ngân sách nhà nước và đẩy mạnh chuyển đổi xanh, chuyển đổi bền vững. Doanh nghiệp phát thải nhiều cần chịu thuế carbon cao hơn, đây sẽ là nguồn đóng góp đáng kể vào ngân sách cho các quốc gia. Đến lượt mình, chính phủ cần tập trung sử dụng nguồn ngân sách này cho các chính sách an sinh xã hội. Các chính sách an sinh xã hội không chỉ phục vụ nhóm những người trực tiếp chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (người nông dân mất mùa, người dân mất nhà do bão lũ,...) mà còn phục vụ nhóm người lao động mất việc làm do ảnh hưởng của quá trình chuyển đổi xanh.
Quá trình chuyển tiếp sang một nền kinh tế carbon thấp đòi hỏi sự hy sinh từ phía các doanh nghiệp và người lao động khi doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều quy định khắt khe hơn cũng như yêu cầu tăng chi tiêu cho các công nghệ hiện đại phục vụ chuyển đổi xanh. Điều này có thể dẫn đến việc cắt giảm nhân sự và nhiều lao động có nguy cơ mất việc. Việc làm trong một số lĩnh vực nhất định có thể sẽ biến mất. Do đó, việc bù đắp thông qua hệ thống an sinh xã hội là một chính sách vô cùng quan trọng.
Tích hợp an sinh xã hội vào các chính sách khí hậu là điều cần thiết để đạt được kết quả công bằng và bền vững, nhằm mục tiêu bảo vệ người dân trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế carbon thấp cũng như tăng sức chống chịu của xã hội.
Nhiều quốc gia trên thế giới đã triển khai ý tưởng này. Iran đã giảm trợ cấp nhiên liệu và chuyển đổi thành một dạng trợ cấp thu nhập toàn dân, từ đó, giúp bảo đảm an sinh xã hội cho 86,8% trẻ em và 100% nhóm dân số dễ bị tổn thương. Canada sử dụng chính sách tăng giá sử dụng carbon và bổ sung chương trình trợ cấp trẻ em từ 41-75 USD cho các gia đình có trẻ em.
Hệ thống bảo trợ xã hội đóng vai trò then chốt trong việc giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và đảm bảo sự công bằng trong quá trình phát triển bền vững. Đối với Việt Nam, việc mở rộng và cải thiện hệ thống này không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết mà còn là yếu tố quyết định để đạt được mục tiêu phát triển bao trùm và bền vững. Với sự cam kết từ chính phủ, sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế và nỗ lực từ toàn xã hội, trong tương lai gần, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một hệ thống bảo trợ xã hội mạnh mẽ, góp phần bảo vệ người dân trước các rủi ro ngày càng gia tăng từ biến đổi khí hậu.