
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Trường Thiếu nhi Quốc tế tại Tiệp Khắc năm 1957. Tác giả Đào Thị Minh Vân ngồi thứ 2, từ phải qua. (Ảnh di vật, do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trao tặng gia đình).
Vừa ra đời được ít ngày, tôi đã được mẹ đẻ là Hoàng Minh Phụng đặt vào quang thúng, gánh theo tài liệu và tư trang, cùng cơ quan của bà theo đoàn người vượt sông Hồng tản cư ra khỏi Hà Nội, để lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến...
Tôi được sống trong tình thương yêu của cha mẹ chỉ trong vòng một năm ngắn ngủi tại cơ quan Tình báo Quân uỷ Hội của Bộ Tổng Tham mưu, lúc đó đóng tại Đại Từ, Thái Nguyên. Khi tôi được hơn một tuổi, người mẹ kính yêu của tôi đã chẳng may bị sốt rét ác tính, đột ngột mất tại chiến khu.
An táng cho mẹ tôi xong được mấy ngày, thì cha tôi nhận nhiệm vụ đặc biệt lên đường vào Nam Bộ. Với tôi, đó cũng là những ngày cuối cùng được nhận hơi ấm của tình phụ tử ruột thịt. Cha tôi ra đi và đã đi mãi mãi, không còn cơ hội để quay về gặp con, dù chỉ một lần.

Tấm ảnh hiếm hoi bé Đào Thị Minh Vân khi chưa đầy một năm tuổi cùng cha ruột Đào Phúc Lộc và mẹ ruột là Hoàng Minh Phụng, tại Chiến khu Việt Bắc năm 1947. (Mẹ bế tôi, quấn bằng chiếc quần cộc của cha, thay cho tã lót).
Qua thư của cha viết, qua những hình ảnh hiếm hoi còn lại, qua những lần được nghe đồng đội cũ của cha mẹ kể lại, tôi hình dung mẹ đẻ của mình là một phụ nữ xinh đẹp, dịu hiền, tình nghĩa và thương yêu chồng con hết mực. Cha và mẹ đã cho tôi cuộc sống, hình hài, vóc dáng. Tôi được thừa hưởng hai lúm đồng tiền của mẹ, nước da nâu nâu của cha. Ơn sinh thành của cha mẹ, tôi mang theo suốt hành trình của cuộc đời, cùng với niềm tự hào của gia đình và dòng họ.
Sau khi cha tôi vào chiến trường Nam Bộ, theo đường dây của cơ quan giao liên tình báo, tôi được đưa từ huyện Đại Từ (Thái Nguyên) về Ban Tình báo Hà Nội. Tiếp đó, tôi được đưa đến ở tại nhà bà Nguyễn Thị Kíu số 41 Lò Sũ, (sau đó là nhà số 36) nhờ nuôi dưỡng. Tôi gọi bà là “me” (không phải là “Mẹ”, vì chữ “e” không có dấu nặng) và xưng “con”. Hồi đó, tôi mới chưa đầy hai tuổi, vừa chập chững biết đi...
Me Kíu yêu thương tôi như con đẻ. Bà là nhà kinh doanh, chuyên sản xuất bánh - mứt. Hồi ấy, thương hiệu bánh - mứt “Tùng Hiên - Cô tiên gảy đàn” đã nổi tiếng khắp Hà thành và các tỉnh lân cận. Cứ mỗi mùa Trung thu và Tết đến, khách phải đặt hàng từ hai, ba tháng trước mới kịp giao. Dựa vào nguồn lực tài chính và chỗ buôn bán sầm uất, đông người đi lại, gia đình me Kíu còn là cơ sở bí mật của cha tôi và một số đồng chí của ông qua lại để liên lạc.
Ngoài tôi ra, me Kíu còn nuôi thêm bốn đứa trẻ nữa, tuy thời gian bà nhận nuôi có khác nhau, cũng là con của các cán bộ tình báo đang hoạt động ở xa, hoặc bí mật, không có điều kiện trực tiếp chăm sóc.
Năm 1956, tai họa đã đổ ập xuống gia đình chúng tôi: Theo chính sách cải tạo công thương, me Kíu đã bị quy là “thành phần tư sản bóc lột”. Hãng sản xuất Tùng Hiên bị tịch thu tài sản và sung công. Cuộc sống khó khăn vì kinh tế không còn như xưa. Me Kíu buồn lắm, để có tiền nuôi chúng tôi, bà phải đi làm thuê, bán bánh mỳ rong, bán nước chè chén... Nhưng chúng tôi không hề nghe me than khổ hoặc trách móc ai. Bà thường động viên chúng tôi và bảo: “Ngày thống nhất, cha mẹ của các con trở về sẽ minh oan cho me và cả chú Cầu nữa”.
“Chú Cầu” là em của me Kíu và cũng là một cơ sở Cách mạng bí mật trong nội thành Hà Nội từ hồi thành phố còn bị Pháp tạm chiếm. Gia đình chú cũng là một trong những cơ sở nguồn giúp đỡ cho cơ quan của cha tôi về mặt tài chính, và buồn thay họ cũng bị quy là “thành phần tư sản” phải cải tạo. Do quá buồn bực, căng thẳng, lại không thanh minh được với ai, nên năm ấy chú Cầu đã bị đột quỵ mà chết...
Sau này lớn lên, tôi hiểu được rằng đó chính là sự hy sinh, mất mát lớn nhất của những cán bộ chiến sĩ làm nhiệm vụ đặc biệt. Sống giữa Thủ đô đã được giải phóng, nhưng vì phải giữ bí mật vì sự an toàn cho những đồng chí của mình còn đang hoạt động trong lòng kẻ thù, nên không ai được bộc lộ thân phận và vai trò nhiệm vụ thực sự của mình. Họ bị chính người thân, bạn bè và chính quyền cơ sở nơi sinh sống hiểu lầm, nhưng đành chỉ biết thầm lặng chịu đựng và hy sinh tất cả tài sản cùng danh dự của mình. Chú Cầu chỉ là một ví dụ.
Riêng me Kíu vẫn có một niềm tin mãnh liệt: Nhất định mình sẽ được minh oan! Me luôn hi vọng rằng cha tôi và các đồng chí của ông sớm trở về... Tiếc rằng ngày đó đã không bao giờ đến với bà. Cha tôi đã ra đi vĩnh viễn cùng cái chết bí ẩn và sự hy sinh thầm lặng của ông năm 1969. Mãi gần 30 năm sau, sự việc mới được làm sáng tỏ, thì Me Kíu cũng đã qua đời.

Một tấm hình đẹp và hiếm hoi bé Đào Thị Minh Vân được chụp với Me Kíu (tức Nguyễn Thị Kíu) – Một người mẹ đã vô cùng vất vả nuôi tôi khôn lớn từ khi mới hơn một năm tuổi.
Còn mãi trong tôi là hình bóng me Kíu lúc vấn tóc trần, lúc thì bới cao. Đêm đêm, bà ngồi bên bàn tính bằng gỗ, gảy qua gảy lại, rồi ghi ghi, chép chép vào sổ sách. Hàng ngày, sáng ra bà dặn dò người làm bao nhiêu mẻ mứt, bao nhiêu ký đường, sữa, bột, làm bao nhiêu ký bánh kẹo, từng loại sản xuất ra sao, lấy hàng từ đâu, giao hàng cho ai. Trước khi ra khỏi nhà, lúc nào bà cũng thay áo dài thật đẹp. Trông bà thật sang trọng, quý phái. Bà hay ôm tôi vào lòng và thủ thỉ: “Ai hỏi bố con đâu, con phải trả lời là bố đi làm ăn xa ở Sài Gòn” hoặc bà bảo: “Nếu người lạ mặt có hỏi con là gì của me thì con phải trả lời bố con là em ruột của me đi làm ăn xa nhiều năm rồi”.
Me Kíu đã giữ bí mật tuyệt đối cho công tác của cha tôi và những đồng đội của ông. Bà hay đi chùa, cầu an cho mọi người, mọi nhà. Những lúc như vậy, bà đều cho lũ trẻ con đi theo. Tôi nhớ mãi cách bà tự pha cà phê, pha trà khi bà muốn uống. Bà thường bảo: “Cái gì con làm được thì cố mà làm lấy, cố một chút, ráng một chút, đừng làm phiền hà ai cả là tốt nhất”. Thỉnh thoảng, đêm đêm tôi hay thấy bà ngồi khóc một mình. Vì còn bé quá, tôi chưa hiểu, thường là sợ nên tôi cũng khóc theo bà, hoặc lại hỏi: “Sao me là người lớn mà lại khóc?” Bà nói: “Me nhớ bố mẹ của con, me tủi thân quá!”...
Ước gì thời gian có thể quay ngược lại, tôi sẽ hiểu được me Kíu như bây giờ. Và tôi sẽ ngoan hơn để bà được vui thêm một chút. Bà yêu thương năm đứa trẻ con như nhau. Bà vẫn thường dạy chúng tôi: “Ăn cơm một mâm với nhau mà cãi nhau là hư lắm, lớn lên ai chơi với mình nữa!”. Hoặc: “Các con phải bỏ ngay tính đua đòi, hay ganh ghét đi, kẻo sau này khó mà sửa chữa đấy!”. Riêng với tôi, bà còn bảo: “Bố con và mẹ con yêu me lắm đấy, không biết sau này lớn lên con có yêu me như bố mẹ con không?”.
Khi biến cố bất ngờ xảy ra đối với me Kíu, tôi vẫn nhớ: Trước mặt mọi người bà không bộc lộ thái độ, song khi chỉ còn lại một mình, bà buồn lắm. Bà cầu Trời, khấn Phật và thắp hương luôn luôn. Khi tôi bắt đầu lớn, bà thường dạy: “Con ạ, phải tự lập mà sống. Khi con có chí tự lập thì dù cho giông tố xảy ra con đều ứng phó được”. Bà bảo ban chúng tôi sống phải có cái Tâm: “Các con nhớ lấy, sống có cái Tâm thì các con sẽ dễ bỏ qua mọi chuyện”.
Vào khoảng năm tôi được sáu hay bảy tuổi thì, do điều kiện sống quá khó khăn, tôi được chuyển sang ở nhà bác Cung.
“Bác Cung” là chị ruột của mẹ Phụng, người cao dong dỏng, vóc dáng đẹp, lúc nào cũng thơm phức nước hoa. Là phụ nữ sống hiện đại, bác hút thuốc rất nhiều, uống cà phê và trà liên tục. Buổi sáng, bác Cung thường ngồi trước bàn phấn, trang điểm rất kỹ. Nhà có xe hơi, lâu lâu tôi cũng thấy bác Cung tự lái xe hơi đưa gia đình đi đây đó. Buổi tối, họ thường đi khiêu vũ hoặc đi giải trí ở câu lạc bộ của Pháp ở đường Tràng Tiền, Hà Nội.
Trái ngược với sự giản dị của me Kíu, bác Cung tóc uốn phi-dê, ít có biểu hiện tình thương đối với trẻ con. Có lần bác bảo tôi: “Bác với mẹ mày là hai chị em ruột, nhưng tính tình khác nhau”. Ở nhà bác Cung, tôi chỉ thân và chơi với anh Hiền, là con riêng của bác nhiều hơn, có lẽ do anh hơn tôi một tuổi. Anh Hiền cũng không có cha như tôi vậy. Ngoài ra, tôi còn chơi thân với chị giúp việc của bác Cung. Nhà của bác trang trí rất đẹp và sạch. Có lẽ vì vậy mà sau này tôi chịu ảnh hưởng của bác trong việc bài trí nhà cửa. Tôi thích nhà của tôi có nhiều thứ để trang trí, tổ chức bố trí nhà ở phải đẹp.
Năm 1954, sau chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, bộ đội ta về tiếp quản và giải phóng Thủ đô. Lúc đó, ở Hà Nội có rất nhiều bộ đội Miền Nam ra tập kết. Một buổi sáng, tôi đang chơi ở hành lang, nhìn ra đường tôi thấy một phụ nữ mặc quân phục cao to, da ngăm đen đến nhà. Sau đó, tôi được gọi ra và nghe người lớn giới thiệu: “Cháu Minh Vân đây”. Tôi thấy người phụ nữ ấy bật khóc, rồi ôm tôi vào lòng. Tôi còn nhớ bà khen tôi dễ thương như búp bê. Bà cho tôi xem thư của cha tôi. Tôi chỉ còn nhớ được có một câu trong thư: “Má Hường sẽ là má của con, em Ngọc sẽ là em của con. Ba hi vọng má Hường sẽ yêu thương con như ba và mẹ Phụng đã yêu con”.
Họ tên đầy đủ của bà là Bùi Ngọc Hường (tức Sáu Dân, hoặc Năm Ngọc). Má Hường của tôi tập kết ra Bắc, mang theo em trai cùng cha với tôi tên Ngọc. Má ở ngay trong Thành, thuộc cơ quan Tổng cục Chính trị - Bộ Quốc phòng. Lâu lâu, chủ nhật bà lại đón em Ngọc ở Trường Nhi đồng Miền Nam đóng ở Đống Đa về thăm tôi. Có lần, thấy đầu tôi nhiều chí (chấy) quá, bà vừa bắt chí, gội đầu cho tôi vừa khóc.
Sau này lớn lên, tôi nghĩ lại và mới hiểu má Hường khóc vì tình yêu của bà với cha tôi. Tôi đã gọi bà bằng “má” xưng “con” hết sức tự nhiên.
Tôi gặp má Hường lần đầu tại nhà bác Cung. Sau đó tôi lại quay về nhà me Kíu của tôi. Me tôi thương bà lắm. Má cũng thương me Kíu như chị của bà. Thỉnh thoảng má Hường lại dắt tôi và em Ngọc đi chơi Bờ Hồ ăn kem, có hôm còn đi ăn phở nữa. Vì má mặc đồ bộ đội nên mọi người, nhất là trẻ con cứ nghĩ má Hường ở văn công. Má Hường và me Kíu luôn dặn tôi và em Ngọc: “Hai chị em ráng thương yêu nhau, chăm sóc nhau cho ba các con hay tin sẽ vui”.
Một thời gian sau tôi nghe những người lớn gồm má Hường, dì Hai Hạnh (chị ruột của má Hường) và me Kíu nói với nhau về chuyện cho tôi đi học xa, chuyện làm giấy tờ để kịp cho chuyến đi ấy. Tôi nhớ rất rõ ngày tôi được đi học xa có ba người ra tiễn tôi tại ga Hàng Cỏ: Má Hường, me Kíu và em Ngọc. Má Hường dặn tôi: “Con ráng học giỏi cho ba con vui. Nhớ viết thư về cho má và em Ngọc!”. Me Kíu thì nói: “Con đừng quên là lúc nào me cũng nhớ và yêu con nhiều lắm!”.
Đó là năm 1956, tôi mới tròn 10 tuổi. Cùng đi học xa với với tôi còn có hàng trăm bạn nhỏ và các anh chị. Đoàn tàu đã đưa chúng tôi đi rất xa, qua nhiều vùng đất, gặp nhiều người nước ngoài nói những thứ tiếng rất lạ... Sau này, tôi mới biết mình đang ở Trường Thiếu nhi Quốc tế tại Paraha Tiệp Khắc, một nước trong phe Xã hội Chủ nghĩa ở rất xa Việt Nam.
Tôi cũng được tin má Hường đã về lại chiến trường Nam Bộ từ năm 1959. Hơn sáu tháng trời đi bộ xuyên rừng, nghe nói bà bị sốt rét ác tính tưởng chết. Kế đến, má vào nội thành hoạt động hợp pháp ở Sài Gòn và bị bắt năm 1963. Mười năm sau, theo Hiệp định Paris 1973, bà được thả trong cuộc trao đổi tù binh ở Bù Đốp, Tây Ninh. Lúc ở tù, lâu lâu bà có gửi ra cho tôi và em Ngọc chiếc khăn tay (khăn mùi xoa) do chính bà thêu, có cả áo gối thêu cho cha tôi nữa. Nhưng cha tôi đã không bao giờ nhận được món quà vô giá ấy.
Má Hường của tôi bị bệnh thần kinh từ những ngày ở chuồng cọp bởi sự tra tấn dã man của quân thù và điều kiện sống ở nhà tù quá khắc nghiệt. Khi được trao trả, bệnh của má Hường càng nặng hơn, nhất là khi bà hay tin cha tôi đã hy sinh từ năm 1969. Mỗi khi bị bệnh lên cơn, má Hường thường hát và khóc. Bà toàn hát những bài cách mạng và hô những khẩu hiệu mà bà đã cùng các đồng chí của mình dùng để đấu tranh trong nhà tù Côn Đảo... Sau khi được đưa đi chữa bệnh về, sức khoẻ của bà có khá lên.
Tôi luôn kính trọng má Hường, bởi những phẩm chất nổi bật như trung thành tuyệt đối với Đảng và Cách mạng; đức tính tỉ mỉ, tiết kiệm và cam chịu khổ cực. Đối với má Hường, khi đảm đương công việc của tổ chức phân công thì không kể đến độ dày của tuổi tác. Tôi hiểu bà phải chịu nhiều mất mát và thiệt thòi trong tình cảm riêng tư. Khi cha tôi còn sống, do điều kiện ác liệt của chiến tranh mà má Hường và cha tôi ít có điều kiện sống gần nhau. Ngoài ra, như bao bà mẹ là chiến sĩ cách mạng lúc bấy giờ, bà sanh con nhưng không có điều kiện ở gần để nuôi dưỡng, chăm sóc các con. Má Hường cũng vậy, bà phải gởi con lại cho tổ chức cơ sở, cho bà con dòng họ nuôi hộ. Do vậy, tuổi thơ của các em tôi là Ngọc, Thu và Hồng ít có kỷ niệm gắn bó với má Hường. Sau chiến thắng năm 1975, má Hường từ Côn Đảo trở về thì các em tôi đã lớn. Thiệt thòi của má Hường cũng gắn liền với sự hy sinh lớn nhất của bà, đó là tình cảm gia đình. Bà là người của tổ chức, người của công việc chung, của xã hội, là người tuyệt đối trung thành với con đường mình đã chọn là theo Đảng và Cách mạng.
Từ cuối năm 1959, tôi có thêm người mẹ thứ năm, đó là dì Hai Hạnh. Tên đầy đủ của bà là Bùi Tuyết Hạnh. Tôi gọi bà là “Má Hai”. Tôi về ở với má Hai tại Khu tập thể Văn phòng Phủ Thủ tướng (số 7, Đặng Tất - Hà Nội). Một cuộc sống mới của tôi bắt đầu.
Má Hai là trí thức cách mạng. Người mập mạp, cao to, da trắng, đeo kính cận. Má sống rất tình cảm. Ngay từ buổi đầu bà bảo tôi gọi bà là “má” và xưng “con”. Tính của má Hai cương trực, thẳng băng, quyết đoán, bộc trực, không nể nang, xốc vác, nhanh nhẹn. Chúng tôi ăn cơm ở bếp ăn tập thể. Má Hai có thú ham mê đọc sách báo và có thể quên hết mọi chuyện khi cầm quyển sách, tờ báo, có thể đọc thâu đêm. Tôi bị ảnh hưởng rất lớn đặc điểm này của bà cho đến nay. Cái gì cũng đọc, đọc cho đến một, hai giờ sáng. Sau này tôi vào trường Học sinh Miền Nam, ở tập thể. Cứ hè đến là tôi chia thời gian ra, một nửa về với bà, một nửa ở với me Kíu. Hai bà mẹ, hai tính cách khác hẳn nhau. Một bên thì ào ào, sôi nổi, một bên thì trầm lặng. Nhưng họ đều có chung một tình thương dành cho tôi, là sự quan tâm lo lắng cho cha tôi và má Hường đang ở chiến trường xa.
Khi tôi lớn lên, đến tuổi lấy chồng, hai mẹ đã cùng chung lo đám cưới cho tôi. Đó là một đám cưới thời chiến tranh, không có xe hoa và nhẫn cưới bằng vàng, bạc nhưng đầy ắp tình thương yêu. Tôi không mấy tủi thân so với chúng bạn. Tôi sanh cháu đầu lòng, hai bà lại thỉnh thoảng chia suất cho tôi những tem phiếu, nhu yếu phẩm ít ỏi của mình, như đường, sữa, bột ngọt, gạo để cho cháu của hai bà.
Sau thời kỳ máy bay B52 của Mỹ ném bom trải thảm xuống Miền Bắc, cuối năm 1973 má Hai (tức dì Hai Hạnh, tên đầy đủ là Bùi Tuyết Hạnh) của tôi đã lên đường vào chiến trường. Trước ngày đi bà gọi tôi lại và dặn dò: “Má đi về nơi ba Đạo và má Hường con, không rõ có ngày quay lại đây nữa không. Nhưng má tin vụ ba con mất tích chắc là bị tụi nó bắt rồi giam ở đâu đó. Má hi vọng vậy. Còn má Hường con thì có tin đưa ra là đang ở trong tù Côn Đảo, vẫn đang đấu tranh kiên cường lắm”. Má Hai cứ nhắc đi nhắc lại: “Sau này, nếu má không quay về thì con hãy nhớ là ba của con tên Đạo (tức Năm Thu), má của con tên Hường còn ba em của con là Ngọc, Thu, Hồng”... Dì Hai Hạnh còn cho tôi biết tên một em tên là Hoài Phong còn gởi lại ở Cần Thơ cho ông Tư khi bà đi tập kết...
Nam và Hải là con của Mẹ Hai tôi. Cho đến hôm nay, tôi như còn nghe văng vẳng lời bà nói buổi chiều hôm ấy. Trước khi bà chia tay tôi cùng hai em Nam, Hải để lên xe vào chiến trường. Đối với tôi, hai bà mẹ này có ảnh hưởng rất lớn. Một người Nam, một người Bắc. Khi họ gặp nhau là hai chị em: Một người là chị Hai và còn lại là chị Ba. Một người rộng rãi, phóng khoáng, đôi lúc còn cẩu thả. Một người dịu dàng, hiền lành và ngăn nắp. Khi hai bà gặp nhau câu chuyện của họ tựu trung lại là quanh vụ cha tôi mất tích, má Hường đi tù, không có tin em Thu của tôi, rồi thì đến chuyện của tôi, Ngọc, Hồng. Khi hay tin cha tôi đụng độ với bọn thám báo Mỹ và mất tích thì hai bà chỉ nhắc đến cha tôi mỗi khi có dịp gặp nhau. Má Hai của tôi do điều kiện công tác và vị trí, địa vị của bà trong xã hội nên bà có rất nhiều thông tin từ chiến trường. Những lúc gặp nhau bà thông báo và trao đổi tình hình cho me Kíu tôi hiểu thêm. Tôi nhớ lại, thời gian đó thiếu thốn đủ thứ, song ai ai cũng chỉ quan tâm đến tin từ Miền Nam ra, tình hình ra mặt trận ra sao. Có thể nói sự quan tâm nhất của mọi người lúc đó là tiền tuyến, là phía trước đang chiến đấu để giải phóng Miền Nam.
Thời gian trôi đi vùn vụt, mới đó mà năm nay tôi đã sắp sang tuổi 80. Cả quãng đời đã qua nhiều lúc tôi thầm điểm lại: thất bại có, thành công có, có vấp ngã và đứng dậy. Nhưng trong lòng tôi luôn luôn thầm cám ơn năm bà mẹ của tôi. Mỗi bà mỗi vẻ, mỗi tính cách, địa vị xã hội khác nhau, quan điểm chính trị khác nhau, trình độ văn hoá khác nhau, cách biểu hiện tình cảm cũng không giống nhau, thời gian cưu mang và nuôi dưỡng tôi cũng khác nhau. Tôi luôn nghĩ cả năm bà mẹ đều có chung một tấm lòng nhân ái, đã chia sẻ cho tôi tình cảm khi tôi cô đơn, cơm áo khi tôi thiếu thốn. Nhờ vậy, mà tôi có đại gia đình, gia đình của năm bà mẹ cũng là gia đình của tôi. Bà con của năm bà mẹ cũng là những người thân thiết của tôi. Qua hai cuộc chiến tranh dài dằng dặc, tôi đã lớn lên trong vòng tay yêu thương lớn lao ấy của năm bà mẹ. Cho đến nay, bốn bà đã mất, chỉ còn lại má Hường. Nhưng sau ngày đất nước thống nhất, bà đã đi bước nữa và sống cuộc đời riêng của mình...
Hình ảnh đọng lại trong tôi mãi là cảnh me Kíu, năm ấy đã gần 80 tuổi, ngồi tại chùa Vĩnh Nghiêm cầu siêu cho cha mẹ ruột của tôi gần bốn tiếng đồng hồ. Bởi lẽ, theo bà thì linh hồn cha mẹ tôi có siêu thoát thì bốn con của cha tôi mới được bình an, hạnh phúc, phú quý. Lời cầu an của bà tại chùa Vĩnh Nghiêm có lẽ cũng là lời của các bà mẹ hằng mong muốn cho con mình...
Hơn 20 năm trước, vào cuối năm Canh Thìn - 2000, như một cơ duyên, trong một lần từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội công tác, tôi đã được gặp Nhà văn Đặng Vương Hưng. Hồi đó, anh đang là một trong những cây bút sung sức nhất của báo An ninh thế giới, với nhiều bài viết nhân văn, làm xúc động hàng triệu độc giả. Qua những tư liệu do tôi cung cấp, anh Hưng đã viết bài phóng sự “Tìm lại một người cha anh hùng” đăng trên Báo An ninh thế giới số Tết Tân Tỵ - 2001. Tiếp đó, là bài “Tôi có 5 người mẹ” (nội dung như phần trên đã kể) và cả bài “Me Kíu”... đều đã được in trên An ninh thế giới cuối tháng.
Năm 2002, cũng chính Nhà văn Đặng Vương Hưng đã cùng Nhà Bảo tàng học Nguyễn Kim Thành đã giúp tôi biên soạn cuốn sách nhiều tác giả mang tên “Chuyện chưa biết về Người anh hùng” (sau đổi tên thành “Khúc bi tráng trên sông Vàm Cỏ”); đã được Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành và Nhà xuất bản Quân đội nhân dân tái bản nhiều lần...
Trải qua biết bao buồn vui và thăng trầm của một đời người, tôi cảm thấy còn nợ những người đã thay cha mẹ nuôi mình lớn khôn và trưởng thành một điều gì đó. Có lẽ, cần phải viết một cuốn sách, với những câu chuyện dài hơn, cụ thể hơn nữa để tri ân với bao người mà tôi suốt đời mang ơn. Và nhất là với anh linh của Cha và Mẹ tôi và các cô chú đồng đội của ông bà đã ngã xuống trong hai cuộc kháng chiến... Nên tôi đã quyết định dành thời gian để nhớ lại và tự kể chuyện đời mình. Đây là cách để tôi cảm ơn cuộc đời, cảm ơn biết bao tấm lòng nhân ái, đặc biệt là 5 bà mẹ của tôi.
Đó là năm 2015, Nhà văn Đặng Vương Hưng đã chấp bút giúp tôi cuốn tự truyện “Không thể mồ côi”, với gần 500 trang sách khổ lớn. Tác phẩm đã may mắn và vinh dự thắng Giải Nhì trong Cuộc vận động sáng tác Tiểu thuyết, Truyện và Ký về đề tài “Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống”, do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức (2012 – 2015).

Ảnh: Bà Đào Thị Minh Văn năm 40 tuổi (1986).
Như trên đã kể: Cha tôi vào chiến trường miền Nam làm nhiệm vụ từ khi tôi mới 2 tuổi. Ông đi từ đó và mãi mãi không trở về. Cha tôi đã ngã xuống tại Vàm Cỏ Đông, vào đêm Noel 24/12/1969, vì bị địch phục kích. Ông hi sinh trên đường đi công tác, trong một một trận đánh đẫm máu với Sư đoàn 552 Mỹ và đơn vị trực thăng “Sói Biển”.
Vì nhiều lý do, suốt một thời gian dài, tin tức của cha tôi hi sinh không được tiết lộ. Tôi chịu tiếng oan ức là con gái của một “Cán bộ lãnh đạo đã chiêu hồi và mất tích”. Thậm chí ở quê, người ta còn tịch thu gia sản của ông bà tôi, vì có con là “Kẻ phản bội Tổ quốc”…
Không cam chịu số phận mồ côi, tôi đã dành nhiều năm đi khắp các chiến trường xưa, nơi cha tôi từng chiến đấu. Tôi cất công sang cả Mỹ để tìm tư liệu, gặp gỡ các nhân chứng là đồng đội cũ của cha tôi để khôi phục lại danh dự cho ông và gia đình. Và tôi đã thành công!

Bên mộ Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND, nhà Tình báo Đào Phúc Lộc.
Cha tôi chính là nhà Tình báo Đào Phúc Lộc (tức Hoàng Minh Đạo). Sinh thời, ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ: Trưởng phòng Tình báo Quân ủy Hội - Bộ Tổng Tham mưu; Trưởng ban Quân báo và Tình báo của Bộ Tư lệnh Nam Bộ; Phó ban Địch tình Xứ ủy Nam Bộ; Phó ban Binh vận Trung ương Cục Miền Nam; Bí thư, kiêm Chính ủy Quân khu; Bí thư kiêm Chính ủy Phân khu V và Phân khu I; Ủy viên Thường vụ Khu ủy Sài Gòn Gia Định, Chính ủy Lực lượng Biệt động Sài Gòn...
Ngày 31 tháng 12 năm 1998, lần giỗ đầu tiên sau khi hài cốt của cha tôi là nhà Tình báo Đào Phúc Lộc (tức Hoàng Minh Đạo, Năm Thu, Năm Đời…) đã được đưa về nghĩa trang liệt sĩ TP. Hồ Chí Minh. Bây giờ thì cha tôi đã được nằm chung bên đồng đội của ông. Năm giỗ đầu tiên có rất nhiều các chú, các bác, các cô là bạn chiến đấu của cha tôi đến dự: Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm, Võ Trần Chí, Huỳnh Việt Thắng (Tư Thắng), Nguyễn Võ Danh, Phan Văn Đáng…
Cũng năm đó, cha tôi được truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương Hồ Chí Minh. Bây giờ thì cha tôi đã được đặt tên đường phố và trường học tại Móng Cái (Quảng Ninh), tại TP. Hồ chí Minh và Thủ đô Hà Nội. Xin được gửi trích đăng bài viết nhỏ này trên “Trái tim Người lính Thủ đô” như một lời tri ân tới vong linh cha và đồng đội của ông…
*
Vào khoảng tháng 8 năm 1977, má Hường cùng tôi đến gặp Ban tổ chức Thành ủy và Đại diện của Ban Tổ chức Trung ương Cục còn lại sau chiến tranh, đề nghị họ giúp đỡ tìm lại hài cốt của bố tôi.
Chúng tôi đã đi về phía Tây Ninh. Chuyến đi đó không thành công, vì đi sai hướng và sai cả địa bàn, lại đi lên gần biên giới… Bố tôi hy sinh ở Tây Ninh nhưng ở hướng khác.
Ngày đó, tôi chưa quen đi ô tô, nên tôi nôn mửa tới mật xanh mật vàng, đến nỗi tôi không thể ngồi được mà phải nằm xuống sàn xe. Thời gian này, Ngọc đã quay lại Liên Xô để hoàn thành công trình Tiến sĩ, còn Thu thì đa phần ở trong trường, em Hồng cũng vậy. Do đó chỉ tôi và má Hường đi. Nhưng hình như vấn đề tâm linh không thuận. Trong lòng tôi nghĩ vậy. Và đến tuổi này, sau bao thăng trầm của cuộc sống tôi luôn tin vào tâm linh và luật nhân quả. Lúc nào cũng nhớ lời dặn của me Kíu: “Hãy cứ sống cho tốt, mọi người sẽ không phụ con. Nếu con sống không tốt với bản thân và mọi người xung quanh thì trời sẽ phạt lại”.
Hồi đó, gia đình tôi còn ở nhà 75/7 Mai Thị Lựu, Quận 1. Một buổi tối, có vợ chồng chú Tám Tiến đang làm Bí thư Quận ủy Quận 1, Thành ủy viên, cựu tù Côn Đảo đến thăm nhà. Cùng đi có chú Chín Hòa, là bác sĩ bảo vệ sức khỏe cho lãnh đạo Trung ương Cục thời chống Mỹ, trong đó có bố tôi. Các chú nói tôi đi theo các chú để gặp nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên để tìm hài cốt cho ba. Lúc đó tôi chưa tin và cũng còn chần chừ về hiện tượng lạ lùng của nhà ngoại cảm. Tôi cứ lần chần mãi không chịu đi.
Khi tôi ở Singgapore về, chú Tám lại đến nhà. Lần này, chú đi cùng anh Trương Song Đức, lúc đó là Giám đốc Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh, cùng anh Năm Khoa, Thành ủy viên, Trưởng ban Kinh tế Thành ủy… Ai cũng khuyên tôi đi tìm bố về… Tôi vẫn lần chần không tin. Chú Tám la lên:
- Nếu bay không đi tìm anh Năm Đời, thủ trưởng của tao, thì tao nghỉ chơi bay. Tao sẽ tự đi tìm ba bay, thủ trưởng tao… Nhưng về mặt tâm linh thì bay phải đi vì là máu mủ của ông - Chú quát rất to vì tính chú rất nóng, ngay thật và thẳng thắn…
*
Trở lại thành phố, tôi sắp xếp công việc ngay để đi tìm hài cốt của cha. Tôi báo cho các em tôi: Hồng, Thanh, Thu, Giao vợ của Ngọc. Ngày đầu tiên các em tôi đều có mặt đầy đủ… Rồi vắng mặt dần vì công việc cơ quan và gia đình. Sau mưởi ba ngày ròng rã, chú Tám Tiến, chú Chín Hòa, chú Tư Thắng, chú Sơn, Tư Xuống cận vệ của ba, Ba Thành bảo vệ ba… cùng anh em công ty đeo đẳng từ 3 giờ sáng tới 12 giờ đêm mới về.
Thương nhất là chú Sơn tôi. Chú cũng chịu khổ, chịu cực vì chuyến đi với quyết tâm tìm bằng được hài cốt của anh ruột. Do xác định sai vị trí, nên việc tìm kiếm kéo dài đến mười ba ngày.
Ngày thứ mười hai, tôi mệt quá đang nằm ở gốc cây dừa. Thời gian đó tôi vừa trải qua một cuộc đại phẫu mới được ba tháng, nên người tôi xanh xao và yếu… Nhưng khi đi tìm bố, thì tôi cảm thấy như sức khỏe của tôi như được tiếp sức thêm.
Lúc đó, chú Tám Tiến nhận được điện thoại của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, hướng dẫn tôi đi bằng cái xuồng Ba Lá có gắn máy Kole màu đỏ, đen ngay bãi tha ma cách chỗ đang đào khoảng hơn cây số. Lúc này trời đã chạng vạng, phải ngồi một mình tôi sợ lắm. Tôi sợ ngồi cạnh mấy ngôi mộ lúc mặt trời lặn, nên đã bật khóc.
Một lúc sau, có một bà già xuất hiện và nói: “Đi theo tôi, tôi chỉ cho.” Tôi không đi, vì ngày đầu tiên tôi ghé hỏi thăm chính là nhà bà. Nhưng khi hỏi gì, bà ta toàn cãi: “Ở đây không có ngôi mộ nào là liệt sĩ cả”… Giờ lại nói đi theo chỉ cho thì tôi không tin.
Tôi ngồi đó một lúc nữa, thì cậu Liên lại gọi điện thoại cho. Cậu hỏi:
- Nãy giờ có ai ra chỉ không?
- Dạ, có người phụ nữ.
Tôi nghe cậu nói qua điện thoại:
- Theo bà ta đi… Vào nhà bà, ngay chỗ đậu bán xăng cho ghe thuyền.
Ngồi một lúc nữa, lại có một ông lão đi từ nơi khác đến và nói: “Để tôi chỉ cho ngôi mộ liệt sĩ mà tôi đã chôn đêm Chúa đẻ năm 69”. Tôi nghe mọi người gọi ông là ông Hai Tờ.
Ối trời ơi! Vần "tê' hay" “tờ” cũng là một. Chẳng qua là người Bắc và người Miền Nam phát âm khác nhau mà thôi. Mọi người nói ông Hai Tờ suốt ngày uống rượu đế dữ lắm. Lúc nào cũng say xỉn từ sáng cho tối, không biết trời trăng gì. Tuổi ông năm đó đã 84. Còn cậu Liên nói ông ta “lúc tỉnh lúc mê” có nghĩa là say xỉn. Ông ta nói với tôi: 'Bay cúng đi. Gọi tên tuổi người chết. Hừng sáng mai tao ra chỉ chỗ đã chôn, đầu ở đâu, chân ở đâu.'
Còn bà Năm là người phụ nữ ra gọi, khi tôi hỏi tại sao lúc đầu bà không nói, bà trả lời:
- Những ngày đầu tôi không chỉ, vì ngôi mộ này linh thiêng lắm. Bà con ai có chuyện gì đến cầu khấn ông là ông xả xui hết. Đau bụng đau bão xin ông cũng hết bịnh ngay… Tôi cũng thờ ông hàng ngày, nên ông đã cho tôi trúng xổ số độc đắc. Bởi thế, tôi đã có tiền xây nhà gạch này, và có chút vốn bán xăng từ đó. Có tiền lo cho con ăn học. Con tôi đã tốt nghiệp đại học Hàng Hải. Cả vùng này chỉ có mỗi một con trai của tôi là học xong đại học, cũng là nhờ ông nằm dưới mộ đó…
Trời ơi, trời! "Anh con trai đứng đầu làng" là đây. Tức là đứng đầu làng về học vấn và trình độ. Vậy mà, tôi hiểu là lúc vô ấp phải gặp một thanh niên đang đứng ở cổng ấp…
Tối đó tôi gọi cho cậu Liên. Cậu kêu tôi về ngay Thành phố Hồ Chí Minh. Cậu chỉ cách mua đồ cúng bái, đem ảnh của bố lên… Còn chú Sơn phải ở lại mua gà để cúng suốt đêm gọi hồn bố về. Theo lời cậu, tôi về lo xong mọi việc, rồi quay lại ngay Vàm Cỏ Đông trước khi mặt trời mọc. Chú Sơn thì ở lại cúng xôi gà, đèn đóm gọi tên ông anh cả lên…
*
Sáng hôm đó, tự nhiên ông Hai Tờ không hề say xỉn, ông sang la to lên:
- Đây là đầu, chỗ lui xéo xéo là chân. Lúc chôn do nước ròng, nên tôi phải chèo ghe về vào nhà dân lấy đại 2 cây cài cửa. Cột chân ông lại bằng cọng dây dù ở võng của ông kéo ra. Vì tui sợ nước ròng nó lôi xác ông đi. Còn xác ông tôi bọc lại trong cái võng đó…
Như cậu Liên đã nói: "Nếu mà gặp may chỉ đào trong vòng một tiếng." Đúng như vậy, đầu tiên là xương sọ, bị rễ cây dừa xuyên qua như ở bàn cờ. Kế đến có cây bút bi rơi ra. Anh Tư Xuống, cựu cận vệ la lên: "Đúng là cây viết của ông già Năm". Dưới chân có hai cọc sắt như cậu Liên chỉ trước. Tấm võng đã mủn ra nhiều, nhưng vẫn thấy màu cỏ úa, trong Nam gọi màu rêu, còn cậu Liên gọi là 'màu cổ vịt'.
Một lúc sau, chú Chín Hòa mang theo cả kính lúp la lên: "Có ba chiếc răng bọc bạc đây rồi, đúng hàm dưới,". Chỉ có điều vì thời gian lâu quá nên đã bị rỉ sét, nhưng chú đã mang ra sông Vàm Cỏ rửa rồi. Chú Tư Thắng gọi ngay cho Thành ủy. Chú Tám Tiến phấn khởi quá vì tìm được thủ trưởng rồi. Chú chỉ huy đào, cẩn thận từng ly từng tý… Chú Chín Hòa thì cứ la lên: "Đây là xương mô, xương đầu…"
Ông Hai Tờ còn đi một vòng dòm ngó mấy chục người ngồi, tự nhiên ông chỉ vào mặt chú Sơn tôi rồi nói:
- Cái ông mà tôi chôn ở đây mấy chục năm trước nhang nhác giống thằng cha này… Chỉ có điều, cái ông chết lớn con hơn một chút…
Mọi người hỏi:
- Sao chú Hai chôn lén ban đêm mà lại nhìn thấy?
Ông trả lời:
- Đêm năm ấy là đêm sáng trăng rất rõ. Nếu không lầm thì lối chừng 15 hoặc 16 rằm. Tôi còn thấy trong miệng ông nó có léo màu vàng. Thôi, xong chuyện rồi tôi đi kiếm mấy chai xị đế đây!
Bà con ai cũng bảo: 'Ngộ thật, hàng ngày là ông Hai đi tìm chai xị đế rồi, không rõ có gì xui khiến mà sáng nay ông Hai Tờ không uống' …
Tôi tin là, tâm linh của bố tôi khiến ông không uống rượu sáng đó để chỉ cho rõ ràng.
Ông Hai còn kể rành rẽ, chi tiết:
"Trận đụng độ trên sông Vàm Cỏ năm đó lớn hết biết. Sau đó, bọn nó đi lùng sục suốt cả tháng hòng tìm được xác đằng mình. Đêm đó, tui và hai du kích xã đi đóng đáy kiếm cái ăn, thấy có cái xác dập dềnh ở kinh rạch. Chúng tôi cùng vớt lên thấy bị thương, nát cả vùng bụng rồi mà sao ổng còn lội được hơn cả ba cây số đến đây, mới tắp vào kinh nhỏ mà chết.
Nghe đồn rằng dân cán bộ bự thì không có mang ba lô, mùng mền trên mình. Chỉ có một võng tăng và trong võng tăng có khẩu K59 mà năm đó (1969) ai có K59 là chức bự lắm. Khẩu K59 đó tôi nạp lại cho bộ đội chính quy tập kết về đây. Còn tăng võng tôi dùng để chôn ông đó.
Khi chèo xuồng đi lấy hai thanh sắt, tôi rút đại hai then cài cửa của hai nhà dân, nên mới có một thanh tròn, còn một thanh dẹp. Mà lúc đó nhà ở vùng này bỏ không, ít có ai ở lắm vì tụi nó lùng sục cả ngày đêm tìm Việt cộng, bám trụ chỉ có du kích hoạt động về đêm.
Trận đụng độ năm đó cuối năm 1969 rất lớn, có cả tàu thủy, pháo bay, trực thăng. Bọn tôi du kích địa phương cho là tụi Mỹ đụng phải quân chính quy Miền Bắc rồi, ai dè là ông bự đằng mình…"
Tôi gọi điện cho cậu Liên, xin ý kiến bốc và đưa về, cậu phán:
- Đưa tất cả những cái gì nằm trên miếng vải dù về, vì đó đều là cốt của bố mình đã rã ra… Hai thanh sắt, cọng dây dù đốt lên thả ngay xuống sông Vàm Cỏ tại đó. Giờ khởi hành về nghĩa trang phải là giờ Hoàng Đạo.
Đoàn người lại di chuyển tốc hành về nghĩa trang thành phố. Chỉ tiếc thời khắc ấy không có các em tôi. Vì bận đi làm, đi dạy, vì ở xa, đúng như cậu đã nói trước: “Lúc đầu đi tìm, chị em của chị đi đầy đủ nhưng sau đó vắng dần. Và chị sẽ là người đầu tiên trong nhà nhìn thấy cốt của bố”.
Chú Sơn không nói gì cả, chỉ ngồi ôm mấy bịch cốt của anh mình bây giờ đã tan rã ra. Nhìn chú rất thương, một ông già trên 70 tuổi đi ròng rã hơn mười ba ngày theo cháu và đoàn tìm kiếm hài cốt anh mình ở Vàm Cỏ Đông.
Theo lời cậu Liên, đúng giờ "hoàng đạo",đoàn bắt đầu đưa hài cốt cha tôi khởi hành về Nghĩa trang Thành phố. Không hiểu vì lý do gì, sức lực ở đâu ra mà các chú cứ hát vang mãi những bài ca cách mạng: Từ Tiến quân ca, đến Giải phóng miền Nam, Tiến về Sài Gòn. Họ đồng ca hát vang suốt từ Vàm Cỏ Đông đến Nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi cứ cảm giác như các chú đang hành quân…
*
Trục trặc lại đến, vì khi đưa hài cốt cha tôi về đến được nghĩa trang liệt sĩ, thì những người quản lý ở đây không cho đưa vào, vì chúng tôi không có bất cứ mảnh giấy nào của Bộ Quốc phòng hoặc của bộ thương binh xã hội. Chú Tám Tiến, chú Chín Hòa nổi nóng tùm lum…
Tôi sực nhớ ra, trong nghĩa trang đã có ngôi mộ số 47 là ngôi mộ gió. Ngôi mộ tượng trưng mang tên cha tôi ở ngay khu của cấp lãnh đạo. Giở bộ sổ nghĩa trang, lúc đó họ mới nói: “Được rồi, cho tạm để ở đây.”
Không có chỗ chính diện, tức quá chú Tư Thắng gọi ngay cho chú Bảy Dự. Chú Bảy điện thoại nói với Giám đốc nghĩa trang cái gì không rõ. Tôi chỉ nghe ông ta trả lời: "Dạ, em xin làm ngay, dạ em sẽ làm theo ý của anh Bảy"…
Kế đến, chú Bảy yêu cầu đoàn người về ngay Thành ủy gặp chú và tổ chức. Tất cả mọi người tập trung về Thành ủy. Lúc ở thành ủy tôi mới gọi điện thoại báo cho má Hường biết là đã tìm được bố và đã đưa cốt về nghĩa trang liệt sĩ. Bà la lối giữ lắm, nào là đi tìm không cho bà đi, nào là giấu diếm bà… Tôi trả lời bà, đây là ý kiến cậu Liên dặn: "Chỉ được báo cho má biết sau khi cốt đã về đến nghĩa trang liệt sĩ".
Tại văn phòng Thành ủy, mọi người đang bàn về lễ cải táng, tôi nghe loáng thoáng chú Bảy nói:
- Phải báo ngay cho Bộ Quốc phòng, Ban Tổ chức Trung ương, Tổng Cục chính trị, Tỉnh ủy Quảng Ninh và sáu tỉnh của Đông Nam Bộ cũ, Bộ tư lệnh Quân khu 7, Bộ tư lệnh Quân sự Thành phố, Tổng cục II, Bộ Công an và các đồng chí cũ…
Thực sự, lúc đó tôi chả nghe được gì cả, trong óc của tôi chỉ có một ý nghĩ tôi đã tìm được bố tôi rồi. Ngoài ra, tôi cũng chỉ nghĩ là gia đình chị em tôi làm lễ cải tang cho bố tôi là đủ… Đang nghĩ như vậy, tôi thấy bàn qua bàn lại giữa các vị làm lớn với nhau về cách thức tổ chức cải táng, cách thức nghi lễ, cách báo cho các đồng chí cũ…
Rồi tôi nghe chú Tư Thắng nói lớn tiếng:
- Việc cải táng đồng chí Hoàng Minh Đạo là việc của tổ chức. Còn tôi là tôi đi tìm bạn của tôi là Năm Đời và đã đưa được về đây cho các anh. Các anh làm sao thì làm, cho xứng đáng với những gì mà Năm Đời đã cống hiến.
Ba ngày sau, lễ cải táng diễn ra. Tôi nghe Ban quản lý nghĩa trang nói, ở đây chưa từng có cuộc cải táng nào lớn như vậy! Đông đủ các quan chức lớn đến nhiều như vậy…
Trong lễ cải táng cha tôi có hơn 10 vị tướng tới dự. Có cả Bí thư và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh, Long An, Vũng Tàu, một số vị Anh hùng lực lượng vũ trang. Tổng cục II, Quân khu 7, nhiều nhà Tình báo nổi tiếng, nhiều lãnh đạo Thành ủy, Biệt động, Binh vận… chú Bảy Dự, chú Cao Đăng Chiếm, chú Tư Thắng, nhóm cố vấn tình báo Vũ Ngọc Nhạ, Ba Danh (Ba Trần) chú Ba Quốc, chú Phạm Xuân Ẩn, ông Mười Hương, Ba Hòa, bác Hai Văn, bác Hai Xô phó bí thư Trung ương cục Miền Mam cũ…
Người phát biểu biểu thay mặt những đồng chí của cha tôi là Đại tướng Mai Chí Thọ, chú nói rất cảm động. Chú khóc vì thương tiếc đến nỗi nửa chừng chú phải dừng lại… Chú có nói:
- Đứng đây hôm nay, chúng tôi đã được gặp lại đồng chí Hoàng Minh Đạo, tức Năm Thu, Năm Đời thân yêu. Đồng chí là một người gan dạ, thậm chí đến mức liều lĩnh… Báo cáo với đồng chí rằng: Chúng tôi vẫn trung thành với con đường của đồng chí, vẫn trung thành với Tổ quốc và nhân dân như lúc đồng chí còn sống… Tôi cũng cảm ơn nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên một người nông dân ở Hải Dương có công năng đặc biệt, đã giúp cho Thành phố tìm được rất nhiều hài cốt các đồng chí lãnh đạo như Lê Thị Riêng, Đoàn Văn Bơ, Nguyễn Trọng Tuyển, Trần Đình Xu… Nay lại thêm đồng chí Hoàng Minh Đạo của chúng ta…

Trong Lễ Cải táng của cha tôi, rất nhiều đồng chí, đồng đội của ông đã có mặt; trong đó có những Nhà tình báo nổi tiếng: Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ, Thiếu tướng Đặng Trần Đức (Ba Quốc), chú Sáu Mạnh…
Chú Chín Hòa tặng vong linh cha tôi một bài thơ rất hay, rất dài… định đọc lúc làm lễ ở trong nhà, nhưng Ban tổ chức không cho đọc. Ra đến chỗ hạ huyệt, chú Mai Chí Thọ kêu chú Chín Hòa lại nói nhỏ: "Giờ bay đọc bài thơ đi!'. Vậy là, không cần ai giới thiệu, chú Chín Hòa đứng lên đọc cả bài thơ dài. Ai cũng khóc… Trong đó có câu: 'Một vị tướng vô danh chưa từng có quân hàm. Một vị anh hùng chưa được tuyên dương lúc chết…".
Sau này chú Chín cứ nhắc lại và ấm ức mãi và nói cái vụ Ban Tổ chức Lễ cải táng cha tôi không cho đọc thơ. Nhưng nhờ Đại tướng ra lệnh: 'Đọc đi'! Vậy đó, ai dám cãi.
Trích tự truyện của Đào Minh Vân
Đặng Vương Hưng (chấp bút)