HOANHAP.VN - Ở nước ta tỷ lệ lao động không có việc làm ở đô thị còn khá cao; hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn còn rất thấp; hằng năm lại có hơn một triệu người đến tuổi lao động. Trước tình hình đó, Đảng ta đã có chủ trương:"Cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia còn có vai trò quan trọng trước mắt và lâu dài”.

|
|
Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Đào Ngọc Dung và Bộ trưởng Bộ Việc làm và Lao động Hàn Quốc Lee Ki Kweon ký kết Bản ghi nhớ |
Nhằm cụ thể hóa chủ trương trên, ngày 22/9/1998 Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 41-CT/TW về xuất khẩu lao động và chuyên gia (sau đây gọi tắt là XKLĐ). Tại Chỉ thị này, Bộ Chính trị đã yêu cầu các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban, Đảng, đoàn, ban Cán sự Đảng và Đảng uỷ trực thuộc Trung ương lãnh đạo quán triệt và tổ chức thực hiện những nội dung: Về chủ trương; giải pháp; tổ chức và quản lý; trách nhiệm của các cấp uỷ đảng trong việc thực hiện công tác XKLĐ. Triển khai thực hiện Chỉ thị trên, trong những năm vừa qua Chính phủ và một số Bộ, ngành chức năng đã kịp thời ban hành một số văn bản pháp luật, sửa đổi bổ sung các chính sách, cơ chế XKLĐ đảm bảo quyền lợi cho người lao động, cho các doanh nghiệp (DN) và Nhà nước; đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực trong nước và nghiên cứu tìm kiếm thị trường lao động nước ngoài phục vụ cho nhiệm vụ XKLĐ. Quan trọng nhất, ngày 29/11/2006, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (Luật số 72/2006/QH11). Và việc cho ra đời Cục Quản lý lao động ngoài nước (sau đây gọi tắt là Cục XKLĐ) thuộc Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội (sau đây gọi tắt là Bộ LĐTBXH) cũng thể hiện được sự quan tâm của Đảng, Chính phủ với công tác này.
Nhờ có sự đầu tư và quan tâm của Nhà nước nên hoạt động XKLĐ ở nước ta đã có một bước phát triển đáng kể trong những năm vừa qua. Theo thống kê của Bộ LĐTBXH, thì số lao động xuất khẩu (LĐXK) đã tăng nhanh qua các năm; số DN hoạt động trong lĩnh vực XKLĐ cũng gia tăng và thị trường XKLĐ cũng ngày càng được mở rộng. Nếu như năm 1999 số LĐXK mới chỉ đạt 21,5 ngàn người, thì từ năm 2014 đến nay con số này đều đạt ở mức trên 100 ngàn người/năm. Cụ thể năm 2016 số LĐXK đã đạt con số kỷ lục là 126 ngàn người. Năm 2017, Bộ LĐTBXH đặt kế hoạch đưa 105 ngàn lao động đi làm việc ở nước ngoài, trong đó các thị trường trọng điểm tiếp tục là Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc. Theo số liệu báo cáo từ các DN, chỉ tính riêng tháng 4/2017, tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài đạt 11.741 lao động (4.411 lao động nữ), gồm các thị trường: Đài Loan: 5.538 lao động (1.719 lao động nữ), Nhật Bản: 4.459 lao động (1.904 lao động nữ), Hàn Quốc: 844 lao động (164 lao động nữ), Malaysia: 95 lao động (55 lao động nữ), Ả rập - Xê út: 567 lao động (513 lao động nữ), Macao: 44 lao động nữ, Algeria: 112 lao động nam, UAE: 29 lao động nam và các thị trường khác.
Nếu như năm 2000, Việt nam mới chỉ có 110 DN được cấp giấy phép hoạt động trong lĩnh vực XKLĐ, thì đến nay đã có 284 DN được cấp phép đang hoạt động và 46 DN bị thu hồi giấy phép.
Khác với việc XK hàng hoá thông thường, XKLĐ ngoài ý nghĩa giải quyết việc làm, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, còn góp phần vào việc nâng cao trình độ tay nghề, tác phong công nghiệp, ngoại ngữ cho người lao động, nâng cao đời sống cho các gia đình có người đi lao động XK và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Sau khi về nước, chính đội ngũ lao động này lại trở thành lực lượng quan trọng đóng góp tiền vốn và kiến thức cho tiến trình đổi mới đất nước.

|
|
Lao động Việt Nam chuẩn bị rời quê hương đi XKLĐ
|
Nhìn về mặt lý luận và kết quả thu được do hoạt động XKLĐ mang lại trong thời gian vừa qua, nhiều người (cả DN lẫn người lao động) đã lầm tưởng hoạt động XKLĐ là loại trái ngọt dễ hái. Những ông chủ DN thì cho rằng cứ được tham gia vào hoạt động này sẽ kiếm được lợi nhuận cao. Còn người lao động và gia đình của họ thì cho rằng cứ ra được nước ngoài sẽ kiếm được nhiều ngoại tệ. Song nào họ có hay, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực XKLĐ là một loại hình kinh doanh có điều kiện và người lao động muốn đi XKLĐ cũng phải có điều kiện của nó. Theo quy định của pháp luật hiện hành (cụ thể là Luật số 72/2006/QH11) thì DN muốn hoạt động trong lĩnh vực XKLĐ phải có giấy phép và muốn có được giấy phép thì DN phải có đủ các điều kiện như: Có vốn pháp định theo quy định; Có đề án hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Có bộ máy chuyên trách. Trường hợp DN lần đầu tham gia hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài thì phải có phương án tổ chức bộ máy chuyên trách; Người lãnh đạo điều hành hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải có trình độ từ đại học trở lên, có ít nhất ba năm kinh nghiệm trong lĩnh vực này hoặc hoạt động trong lĩnh vực hợp tác và quan hệ quốc tế. Còn đối với người lao động muốn ra nước ngoài làm việc thì cũng cần phải có một số điều kiện tối thiểu như: Có một khoản tiền nhất định để chi phí cho việc đặt cọc, tham gia khoá đào tạo để được cấp "chứng chỉ đào tạo và giáo dục định hướng cho người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài"; có trình độ ngoại ngữ và tay nghề... Mặc dù được biết pháp luật đã quy định rõ ràng như vậy, song không ít những ông chủ DN không đủ điều kiện vẫn lo "chạy" cho được "tấm giấy phép" được quyền hoạt động trong lĩnh vực XKLĐ. Và nhiều người lao động không hội đủ các điều kiện cần thiết cũng cố lo "chạy" tiền để mua được một "xuất" đi làm việc ở nước ngoài. Chính sự lộn xộn này, đã dẫn đến cảnh tượng "lừa đảo", phá vỡ hợp đồng, tự ý ra làm ngoài... như đã xảy ra trong thời gian vừa qua. Ngoài hiện tượng không lành mạnh kể trên, thì công tác XKLĐ của nước ta vẫn đang gặp phải ba khó khăn lớn, đó là:
Thứ nhất: Khả năng cạnh tranh - trong khi cạnh tranh XKLĐ giữa các nước ngày càng gay gắt, thì phần lớn các DN Việt Nam tham gia hoạt động trong lĩnh vực XKLĐ vừa thiếu kinh nghiệm, thông tin, vừa yếu về năng lực tài chính. Lực lượng lao động xuất khẩu (LĐXK) của Việt Nam kém sức cạnh tranh với một số nước trong khu vực. Theo Cục XKLĐ thì: hàm lượng chất xám trong LĐXK của ta còn thấp cả về ngoại ngữ lẫn tay nghề. Trong 70% số lao động đã có tay nghề XK, mới có 10% LĐXK có tay nghề cao, còn lại 30% LĐXK không có tay nghề.
Thứ hai: Ý thức, tác phong công nghiệp của LĐXK nước ta còn kém. Tư tưởng tham bát bỏ mâm vẫn luôn ngự trị trong những người đi XKLĐ. Mặc dù trong Luật số 72/2006/QH11 đã quy định nghiêm cấm các hành vi “Sau khi nhập cảnh không đến nơi làm việc hoặc bỏ trốn khỏi nơi đang làm việc theo hợp đồng. Ở lại nước ngoài trái phép sau khi hết hạn Hợp đồng lao động”. Và Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Song, tình trạng LĐXK ở lại sau khi hết hạn hợp đồng vẫn thường xuyên xảy ra. Nhất là các tu nghiệp sinh đang học tập và lao động tại thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc.
Thứ ba: Trong khi XKLĐ không đơn thuần là hoạt động thương mại của DN mà là một ngành kinh tế đóng góp vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thì không ít cơ quan chức năng lại coi hoạt động này là việc riêng của các DN, nên chưa có sự hỗ trợ thích đáng.
Để chấn chỉnh tình trạng yếu kém trong hoạt động XKLĐ và tạo điều kiện để công tác này phát triển mạnh trong tương lai, các Bộ, ngành chức năng cần sớm triển khai ngay một số công việc sau:
- Bộ LĐTBXH nghiên cứu, sớm hoàn thiện Đề án “Đưa lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật đi làm việc ở nước ngoài giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến năm 2025” để báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
- Phát triển, mở rộng thị trường sử dụng lao động Việt Nam ở nước ngoài. Bộ LĐTBXH nhanh chóng hình thành hệ thống thông tin thị trường, ban hành chính sách khuyến khích tìm thị trường. Các Bộ, ngành như Bộ Ngoại giao, Tài chính, Nội vụ cùng tham gia với DN trong lĩnh vực này.
- Phòng ngừa, xử lý nghiêm tu nghiệp sinh, người lao động bỏ trốn; xử lý nghiêm các hành vi lừa đảo người lao động.
- Chuẩn bị nguồn lao động, có chiến lược đào tạo XKLĐ lâu dài, có bài bản.