Hà Nội
Thứ 7, 29/11/2025
Nhiều mây
24°C

Khẳng định tính chính danh, tính chính pháp của lịch sử Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy

07/10/2024 22:54
3:12
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, cổ nhân vô cùng coi trọng “danh chính ngôn thuận” và hàng ngàn năm qua, lớp lớp thế hệ ở quốc gia dân tộc nào cũng đều là như vậy. Nhưng thời nay, có không ít người danh đã không chính, hay “hữu danh vô thực”, tức cũng “danh không chính”, thậm chí nhân danh vô lối, tiếm danh tăm tối, lại nói quàng nói xuyên, đi ngược lòng người, bất chấp sự thật và trái lẽ tự nhiên. Điều này càng đúng với những ai đang mưu toan bôi nhọ, xuyên tạc lịch sử của Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy.

Phủ Chính Phủ Dầy – Nơi Mẫu sinh Mẫu hóa

Theo dòng chảy văn hóa, lịch sử bốn tín ngưỡng riêng lẻ được hình thành trong các khoảng thời gian khác nhau một cách ngẫu nhiên đã hợp thành một tín ngưỡng chung bao hàm tín ngưỡng cả vùng Châu thổ Bắc Bộ. Mỗi vị thánh bất tử đều gắn liền với một hay nhiều truyền thuyết khác nhau nhưng đều thể hiện khát vọng chinh phục thiên nhiên để được cơm no áo ấm, khát vọng tự do hạnh phúc, khát vọng giải phóng phụ nữ của dân tộc. Và trong tiềm thức của người Việt, thánh Mẫu Liễu Hạnh là một vị thần biểu tượng cho khát vọng tự do, phóng khoáng, thoát khỏi những quy tắc ràng buộc của xã hội đối với người phụ nữ. Thánh mẫu Liễu Hạnh là vị thần chủ trong tín ngưỡng thờ Mẫu, Tứ phủ, một trong tứ bất tử của người Việt, là hiện tượng lạ của mảnh đất Thiên Bản lục kỳ. Bà đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà hậu Lê đến thời nhà Nguyễn ban cấp nhiều sắc phong tôn vinh là “Mẫu Nghi Thiên Hạ - Mẹ của muôn dân”. Trong kho lưu trữ của Viện nghiên cứu Hán nôm hiện còn hàng chục văn bản ghi chép về bà chúa Liễu. Tuy nhiên, có hai văn bản có giá trị nhất đó là cuốn “Vân Cát Thần Ngữ Lục” của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm và ngọc phả, gia phả, sắc phong, bia ký của dòng họ Trần Lê như: “Tiên từ phả ký” do quan Huấn đạo Việt Yên là Trần Bình Hành soạn. Truyền thuyết về Thánh mẫu Liễu Hạnh xuất hiện khi ẩn khi hiện, ban phúc giáng họa, làm cho người đời vừa sợ vừa kính nể và trở thành vị thánh mẫu linh thiêng được nhân dân đời đời ngưỡng mộ, kính thờ trong tập Truyền Kỳ Tân Phả và cuốn gia phả hiện đang được lưu giữ tại dòng họ Trần Lê thôn Tiên Hương, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định có đoạn chép rằng:

"Cao Cao tổ cô húy Thắng tự Liễu Hạnh, người họ Lê. Bố là Đức Chính mẹ là Diệu Phúc, vào năm Đinh Tỵ sinh ra Tiên Chúa, trong phòng tỏa ra hương thơm lạ kì, đến năm Tiên Chúa 19 tuổi thì kết hôn với người họ Trần giáp Nhị thôn ta. Tổ tiên Mẫu vốn họ Trần vì lánh nạn đổi thành họ Lê, đến ngày mùng 3 tháng 3, Tiên Chúa không bệnh mà mất - khi đó vừa tròn 21 tuổi, mộ táng tại xứ cây đa (Xóm 3, Tiên Hương)". Tán rằng:

Vân ủng hồng y nhất vị

Đầu quy trung hiếu Lê gia

Thiên tướng cát nhân

Địa sinh thần nữ

Ngọc cốt băng cơ thiện mỹ

Thế dĩ tiên danh

Cầm ca thi luật kiêm tinh

Nhân xưng tuyệt phẩm.

Đức Thánh Mẫu giáng sinh vào dòng họ Trần Lê thôn Tiên Hương

Tấm bia niên hiệu Duy Tân thứ 9 (1915) do tổng đốc Nam Định Thanh Oai Đoàn Triến soạn cho thông tin xác định đền thiêng Tiên Hương “Quy mô nhỏ hẹp, gặp ngày hội không sao chứa hết người”. Năm 1912, ông nhận chức Tổng đốc Nam Định, được người trong họ trong làng trong huyện nhờ giúp đỡ tu sửa đền Tiên Hương, không nỡ chối từ bèn “mộ duyên dấy việc” từ mùa đông năm 1912, đến tháng 8 năm 1913 thì hoàn thiện. Ngôi đền mới xây dựng  «... từ nội phủ đến bái đường gồm bốn tòa theo kiểu mới, phía trước thì các lầu tả hữu giải vũ gồm chín tòa, đều nhân theo nếp cũ, rồi xây rộng tường vây đắp hoa trên đầu cột, xây nguyệt hồ, khuôn khổ rộng rãi, so với trước thì có thêm lên”. Tấm bia “Quan lại cúng ngân bi ký” (Bia ghi việc cúng tiền của các quý quan lại) năm 1914 với sự xuất hiện hàng loạt tên tuổi các vị quan lại chức sắc trong vùng đã cho thấy quy mô và sức thu hút lớn của lần xây dựng này.

Theo các nguồn tư liệu khoa học và tâm thức dân gian, Phủ Tiên Hương còn có tên gọi khác là Phủ Chính, Phủ Chính Tiên Hương và Phủ Chính Phủ Dầy. Các dòng chữ “Phủ Chính”, “Tiên Hương Thánh Mẫu Phủ Chính”, “Phủ Chính Tiên Hương” và “Phủ Chính Phủ Dầy” vẫn hiện diện trên các sắc phong, dấu ấn bằng đồng, các thạp, hạc, bình cổ… đang được lưu giữ tại Phủ Chính. Trên chuông đồng có từ năm 1896 đang treo ở phủ Chính và trên 8 bia đá đặt ở trong phủ có từ năm 1892 đều ghi rõ các chữ Phủ Chính.

Trái tim của quần thể di tích quốc gia Phủ Dầy

Trước đây Vân Cát và Tiên Hương là một có tên nôm là Kẻ Dầy, tên chữ là An Thái, khi thành lập xã An Thái gồm bốn thôn là: Vân Cát, Vân Đình, Tây Cầu (Tây La hay La Hào) và Nham Miếu hay còn gọi là Giáp Nhất, Giáp Nhì, Giáp Ba, Giáp Tư tương ứng thứ tự bốn thôn. Vào đời Lê Cảnh Hưng (1740 – 1786) dân thôn Vân Cát (Giáp Nhất) phát triển đông đúc ra phía Bắc và tách thành một xã mới gọi là xã Vân Cát. Xã An Thái vẫn còn bốn giáp cũ, năm Tự Đức thứ 14 (năm 1860) đổi tên là Tiên Hương. Năm 1947, hai xã Vân Cát và Tiên Hương hợp nhất lại thành xã Kim Thái gồm ba thôn Tiên Hương, Vân Cát và Bảng Già (Xuân Bảng). Theo tấm bia “Khải Định lục niên xuân” (Mùa xuân niên hiệu vua Khải Định thứ 6 – năm 1921) ở phủ Vân Cát do Tiến sĩ đốc học Hải Phòng Nguyễn Văn Tính biên soạn có nội dung: “Vốn làng này trước chung nhau, sau mới chia ra (trước là thôn Vân Cát nằm trong xã An Thái) một là hai, hai cũng là một vậy”. Có thể hình dung phần đất thôn Vân Cát hiện nay (Bao gồm Phủ Vân Cát, Đền thờ Đức vua Lý Nam Đế, chùa Vân Cát) là một phần Vân Cát cũ được phát triển thêm về phía bắc (tạm gọi là Vân Cát mới), phần đất Giáp Nhất thôn Tiên Hương (Phủ Chính) hiện nay là phần đất thôn Vân Cát cũ còn lại (tạm gọi là Vân Cát chính hay Vân Cát gốc). Điều này khẳng định rằng Phủ Chính là khu vực nhà cũ của đức thánh mẫu và như vậy đất Tiên Hương hiện nay là đất Vân Cát gốc và là nơi sinh, nơi hóa của đức thánh mẫu Liễu Hạnh chứ không phải thôn Vân Cát (Phủ Vân Cát) hiện nay. Vân Cát và Tiên Hương tức Kẻ Dầy cũ đã có khoảng trên 150 năm phân tách thành hai xã (từ đời  vua Lê Cảnh Hưng, cuối thế kỷ XVIII đến năm 1947). Đây là khoảng thời gian khá dài để người đời sau dễ quên mất quá khứ hai thôn từng là một.

Di tích Quốc gia Phủ Chính Phủ Dầy – Nơi Mẫu sinh, Mẫu hóa

Nhìn vào sơ đồ quần thể di tích quốc gia Phủ Dầy ta dễ dàng nhận ra có hiện tượng nhân đôi (thậm chí là ba) các di tích ở hai thôn Vân Cát và Tiên Hương, cụ thể ở đây có hai chùa, hai Phủ, hai đền thờ vua Lý Nam Đế, hai đền Khải thánh thờ tổ tiên mẫu. Sự phân tách này gắn với sự kiện phân tách hành chính 2 thôn thành hai xã khác nhau trước đây. Do vậy, xã Vân Cát mới đã xây dựng Phủ Vân Cát để thờ vọng Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy. Trước khi chưa phân tách thì cả khu vực Kẻ Dầy chỉ có chung một ngôi đền lớn gọi là Phủ Chính - Phủ Dầy, lâu dần tên gọi Phủ Dầy trở thành tên gọi địa danh, sau này tách thành hai thôn mới có hai tên gọi là Phủ Chính (Phủ Dầy) và Phủ Vân Cát. Phủ Chính hiện nay là Phủ Dầy gốc, nguyên bản có trước khi phân tách. Phủ Vân Cát nằm biệt lập phía Tây Bắc làng trên vùng đất cao rộng trên 2 mẫu, ba phía Bắc, Đông, Nam đều giáp ruộng lúa, phía Tây giáp đường cái quan không có người ở làm ảnh hưởng đến cảnh quan. Trải mấy trăm năm mà phủ Vân Cát vẫn ở vị trí biệt lập như ngày nay chứng tỏ ngày trước khi dân cư thưa thớt thì đền nằm ở khu vực rất xa dân cư, nếu không nói là ở giữa cánh đồng vắng, bãi tha ma. Như vậy nơi đây không bao giờ là nền nhà cũ của mẫu được. Phủ Vân Cát có ban thờ Bà chúa bản đền được đặt ở vị trí trung tâm, sau là ban Tam tòa quan lớn, trước là ban công đồng. Phủ Vân Cát cũng là phủ duy nhất trong các phủ thờ mẫu Liễu ở Phủ Dầy có thờ bà chúa bản đền ở vị trí trung tâm. Điều này khẳng định bà chúa bản đền là dấu vết còn lại của ngôi miếu xưa thờ cô con gái chết trẻ mà linh thiêng trước khi tích hợp vào điện thần mẫu Liễu Hạnh để trở thành Phủ Vân Cát thờ vọng bà chúa Liễu.

Tới đây, lại nhớ và nhắc lại lời người xưa, rằng nếu như đem dục vọng, tạp niệm của mình lắng xuống, có đạo lý nào mà chúng ta không thể thông suốt? Rằng, nếu đem chí hướng của mình mạnh mẽ khơi dậy, có việc gì mà ta không thể làm? Mấy vị ngày nay ấy, danh chính gì mà luận chính danh hay chính pháp về lịch sử Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy, khi các vị chỉ biết ôm trong lòng sự kiêu ngạo vô lối mà quan sát sự tình, mang tinh thần uể oải sa sút, thậm chí đem con mắt hạt đậu mà định luận sự việc, chẳng qua cũng chỉ là hồ đồ sống hết cuộc đời mình. Chỉ thế mà thôi!

Có thể nói gọn lại, lịch sử của Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy, Mẫu Liễu Hạnh vốn là thần tiên thế nhưng vì lưu luyến cõi trần, thương nhớ mẹ cha, thương những người con đất Việt mà bà đã giáng thế. Thánh mẫu là một con người có thật trong lịch sử, bằng xương bằng thịt hoàn toàn như chúng ta, bà được sinh ra và lớn lên trong dòng họ Trần Lê thôn Tiên Hương. Nhân dân ta tôn thờ thánh mẫu ở sự mẫu mực, ý chí quật cường và dũng cảm của một phụ nữ yêu tự do, dám đấu tranh chống lại cường quyền, chống lại những kẻ bạo ngược, những việc làm của bà là để bảo vệ nhân dân cũng như phẩm hạnh của người phụ nữ. Từ sâu thẳm trong tiềm thức văn hóa dân gian, hàng trăm năm nay, khắp trong Nam ngoài Bắc và hải ngoại, người dân luôn có sự ngưỡng vọng, gửi gắm niềm tin ở nữ thần Liễu Hạnh. Đó là tính tất yếu, tính chính danh, chính pháp của lịch sử Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy. Phủ Dầy là trung tâm, là tiêu biểu cho tín ngưỡng thờ mẫu tại Việt Nam. Nghi thức thực hành tín ngưỡng thờ mẫu đã được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại. Việc xác định chính xác tên gọi di tích Phủ Chính và gắn với sự kiện nơi Mẫu sinh, Mẫu hóa có căn cứ cụ thể về mặt lịch sử và quy định pháp lý. Điều này không những góp phần tôn vinh di sản, thể hiện sự tôn trọng lịch sử mà còn đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân.

Tin liên quan
Từ khoá:
Ý kiến độc giả
Về đầu trang